CHUYỂN ĐỔI NGÔN NGỮ BLOG

Thứ Ba, 31 tháng 8, 2021

2233. xử lý vấn đề các “tiểu quốc” Hoa kiều ở Chợ Lớn.

 sưu tầm 



Không phải ngẫu nhiên mà Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn đổi tên thành Đô thành Sài Gòn và cũng không phải ngẫu nhiên mà tỉnh Chợ Lớn – nơi đa số cư dân là người Hoa – biến mất sau Sắc lệnh 143/VN của Tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm ngày 22-10-1956. Khoảng 2 tháng trước đó, nền Đệ Nhất Cộng hòa đã quyết định phải xử lý một cách triệt để vấn đề các bang hội tự trị – các “tiểu quốc” Hoa kiều ở Chợ Lớn…


Sơ lược bối cảnh lịch sử di dân Tàu ở Việt Nam

Đất Giao Chỉ xưa từng có lúc thuộc Tàu, nên đã ngàn năm nay, việc người Tàu sang đây sinh sống là chuyện thường tình. Trước đó thi thoảng cũng có những nhóm người Hoa di dân tới đây vì sự “Thay triều đổi đại”. Nhưng di dân Tàu ồ ạt thành đoàn thành lũ xuống phương Nam là bắt đầu từ giữa thế kỷ XVII. Họ là những kẻ bất phục Mãn Thanh, tìm sang Nam để gìn giữ nề nếp phong tục người Hán. Họ tập hợp nhau lập thành làng, gọi làng Minh Hương (làng của người Minh). Để phân biệt, ta hiểu “người Minh Hương” là những di dân chính trị. Từ thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XX, ta có những “Hoa kiều”, đó là những di dân kinh tế.


Không có dân tộc nào tôn thờ chữ viết như người Tàu. Nghệ thuật viết chữ được luyện thành thư pháp, như một tôn giáo để di dưỡng tâm hồn. Văn tự thành chiếc cầu nối giữa người phàm với thần linh. Lưu lạc đến bất cứ đâu, việc họ bắt tay thực hiện đầu tiên là lập hội quán, để tập hợp thành cộng đồng tương trợ nhau; kế đó là xây dựng trường học, để bảo tồn chữ Hán.


Thời Hậu Lê, người Tàu đã được hưởng quy chế ngoại kiều. Người Việt vốn chuộng hư danh phù phiếm, xem thường việc kinh thương, lại thường xảy ra nội chiến, nên ngay từ Trịnh – Nguyễn phân tranh, người Tàu đã nắm trọn độc quyền khai thác khoáng sản, buôn bán gạo muối và kinh doanh vận tải; giang sơn Đại Việt chia đôi chẳng ngăn được người Tàu ở hai Đàng (Trong và Ngoài) hiệp lực với nhau, chi phối và thao túng toàn bộ kinh tế Đại Việt. Người Tàu chí thú làm ăn, cung cấp lương thực và hàng hóa cho hai phe đồng chủng Tiên Rồng đánh giết nhau, và họ trở nên giàu có, một phần do cái tật của người Việt.


Sau này, sự giàu có của người Tàu được nhà Tây Sơn ghé mắt xanh, đưa vào diện quan tâm đặc biệt. Những cuộc chém giết để cướp của của người Tàu được nhà Tây Sơn tổ chức quy mô: San bằng Cù Lao Phố Đồng Nai, hủy diệt Mỹ Tho, tàn sát Chợ Lớn . Người Tàu bị đẩy vào thế phải đâu lưng cùng Nguyễn Ánh để chung sức tiêu diệt nhà Tây Sơn.

Chính vì thế, khi lên ngôi, vua Gia Long đã dành cho Hoa kiều những đặc ân lớn: nhẹ thuế khóa, miễn lao dịch và không phải đóng thuế thân. Vua lại cho phép họ thành lập bảy đại bang theo phương ngữ, được quyền tự trị, là Phúc Kiến, Phúc Châu, Triều Châu, Quảng Châu, Quế Châu, Lôi Châu và Hải Nàm. Từ sau đời Minh Mạng, tuy cũng có lúc Hoa kiều bị siết chặt, ngăn ngừa họ phóng túng vô cương, nhưng Hoa kiều vẫn luôn là cộng đồng được ưu ái nhất ở Việt Nam. Đến khi người Pháp vào cai trị, những quy chế ưu đãi của triều Nguyễn dành cho Hoa kiều được duy trì hầu như không đổi, thế lực Hoa kiều cứ thế ngày một lớn mạnh.


Kể từ sau hiệp định Geneve Việt Nam chia ra thành hai miền.


Hoa kiều đã được hưởng lợi lộc khổng lổ ở Việt Nam nhưng lại không phải thực thi nghĩa vụ gì đối với quốc gia. Quy chế ngoại kiều ở trong Nam đã giúp họ không phải đóng thuế kinh doanh; thể chế bang hội tự trị khiến họ trở thành những tiểu quốc gia trong một quốc gia Việt Nam Cộng Hòa. Không chịu sự tài phán của tòa án Việt Nam, chẳng cần sự bảo vệ và giúp đỡ của cảnh sát, tự họ giải quyết với nhau theo phán quyết của các Bang trưởng. Sự khép kín của cộng đồng Hoa kiều là hành vi ích kỷ và bội bạc với đất nước đã cưu mang mình.


Để kiến thiết kinh tế cũng như tập hợp được sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, việc đưa Hoa kiều hội nhập là vấn đề quan trọng hàng đầu. Chánh phủ Thủ tướng Ngô Đình Diệm vừa mới được thành lập ở miền Nam ngày 26-10-1955, thì chỉ hơn một tháng sau, vào ngày 7-12-1955, Thủ tướng đã ban hành Dụ số 10 quy định về Bộ Luật quốc tịch Việt Nam. Điều 12 ghi rõ: “Con chính thức mà mẹ là người Việt Nam, và cha là người Trung Hoa, nếu sinh đẻ ở Việt Nam thì là người Việt Nam”. Theo đó, tất cả những ai gốc Tàu sinh ra ở Việt Nam đều bắt buộc phải nhập Việt tịch, để được có quyền lợi và nghĩa vụ của công dân Việt Nam.


Những người Tàu vẫn được hưởng đặc quyền đặc lợi bấy lâu, nay bỗng dưng thấy mình có nguy cơ bị thất sủng nên đã kiên quyết bất hợp tác với chánh quyền. Hơn 800.000 thần tử Hoa Hạ ở miền Nam Việt Nam chăm chú hướng về Đài Loan, trông chờ sự can thiệp của Tưởng Giới Thạch [Con số 800.000 này không tính người Minh Hương; thời điểm đó tổng dân số Việt Nam Cộng Hòa khoảng hơn 10 triệu].


Đinh ninh Thống chế Thạch sẽ “trị” được Thủ tướng Diệm, nên Hoa kiều xem Dụ lệnh số 10 như gió thoảng ngoài tai, không đáng để ý. Trước sự khinh thường luật nước đó, chánh quyền ban hành tiếp Dụ số 48 (ngày 21-8-1956), Sửa đổi Bộ Luật Quốc tịch Việt Nam, Điều 16 quy định:


Hoa kiều thổ sanh (sinh trưởng tại Việt Nam) sẽ là người Việt Nam, bắt buộc phải nhập và khai nhận quốc tịch Việt Nam, hoặc nếu không chịu nhập tịch thì có thể xin hồi hương (về Đài Loan) trước ngày 31-8-1957. Thời hạn ấn định cho những Hoa kiều sinh tại Việt Nam phải làm khai sinh để được cấp thẻ căn cước sẽ kết thúc ngày 08-4-1957, việc kiểm tra sẽ hoàn tất vào ngày 22-6-1957.

Bằng Dụ lệnh này, Thủ tướng Diệm cho thấy sự kiên quyết của chánh quyền để buộc Hoa kiều vào khuôn phép. Ai không muốn nhập tịch cứ sang Đài Loan sinh sống, mỗi người sẽ được chánh quyền cấp cho 400 đồng để “hồi hương”, đúng theo luật định.


Ngày 29-8-1956, Thủ tướng ban hành Dụ số 52 qui định Hoa kiều sinh sống tại miền Nam phải mang quốc tịch Việt. Khi có quốc tịch, họ được tự do giao dịch, đi lại và buôn bán. Người Tàu phải Việt hóa tên họ (như Trịnh, Quách, Mạch, Lâm, Giang, Diệp, Lưu, Vương, Hà, Hứa, Mã, Lý, Trần, Trương, v.v…) chứ không được xưng các tên ngoại quốc hay tên gọi riêng (như Chú, A, Chế…) kể cả bí danh, trong những văn kiện chính thức. Tên hiệu các cơ sở thương mại, văn hóa, phải viết bằng Việt ngữ.

10 ngày sau (6-9-1956), Thủ tướng Diệm lại ra Dụ số 53, hạ đòn quyết định, đánh thẳng vào nồi cơm của người Tàu. Dụ 53 chỉ định những nghề nghiệp mà các ngoại kiều, hay các hội xã, công ty ngoại quốc không được hoạt động, đó là:

1) Buôn bán cá thịt

2) Buôn bán tạp hóa

3) Buôn bán than, củi

4) Buôn bán xăng, dầu lửa và dầu nhớt

5) Cầm đồ bình dân

6) Buôn bán vải, tơ lụa, chỉ sợi,

7) Buôn bán sắt, đồng, thau vụn

😎 Nhà máy xay lúa

9) Buôn bán ngũ cốc

10) Chuyên chở hàng hóa, hành khách bằng xe hơi, hay tàu thuyền

11) Trung gian ăn huê hồng.

Những ngoại kiều đang hoạt động những nghề trên phải thôi các nghề đó trong vòng 6 tháng đối với các nghề từ số 1 đến số 7, và một năm đối với các nghề từ số 8 đến số 11. Những ai vi phạm Dụ này sẽ bị phạt tiền từ 50.000 cho đến 5 triệu đồng, và có thể bị trục xuất. Người Việt Nam nào thông đồng với ngoại kiều vi phạm thì bị phạt 6 tháng đến 3 năm tù ở, và bị phạt tiền giống mức ngoại kiều vi phạm.


Tuy Dụ lệnh chỉ đề cập chung “ngoại kiều”, nhưng nhìn vào, ai cũng nhận ra, đối tượng của nó là Hoa kiều, vì 11 nghề đó là những hoạt động chính của họ.


Ngày 24-10-1956 thủ tướng Ngô Đình Diệm đắc cử tổng thống. Tuy nhiên, cho đến ngày 13-11-1956, theo Nguyễn Văn Vàng, Đặc ủy Trung Hoa sự vụ của chính quyền Sài Gòn lúc đó, thì “rất ít Hoa kiều đến khai nhận Việt tịch, Dụ 48 chưa đem lại kết quả khả quan”.


Ngày 28-11-1956, Nguyễn Ngọc Thơ, Bộ trưởng quốc gia đặc trách kinh tế mời tất cả các đại diện nghề nghiệp Hoa kiều của Văn phòng Thương mại Chợ Lớn đến để nói rõ chính sách quốc tịch của chánh phủ. Ông Thơ cảnh cáo:


“Những người ngoại quốc nào còn muốn tiếp tục hoạt động kinh thương, vấn đề chính yếu là phải giải quyết cho xong vấn đề quốc tịch. Đừng nghĩ rằng chánh phủ sẽ không có biện pháp đối với những ai không muốn tiếp tục hành nghề và chịu thất nghiệp. Giải pháp đã có sẵn, nó nằm trong tầm tay của mỗi quí vị, và quí vị hãy tự quyết định lấy”.

Với hai Dụ lệnh 52 và 53, quy chế ngoại kiều ưu đãi bao đời nay dành cho người Tàu đã hoàn toàn bị bãi bỏ. Bị choáng bởi liều thuốc quá sốc, phản ứng của họ rất dữ. Họ tẩy chay thuốc lá điếu và không tiêu thụ thịt heo (là hai ngành nghề chính của người Việt lúc bấy giờ mới hình thành), thành lập Hội Hoa kiều tẩy chay hàng hóa Mỹ tại Việt Nam (nhằm làm áp lực buộc Hoa Kỳ phải góp phần can thiệp để Tổng thống Diệm thu hồi các Dụ lệnh trên). Chính quyền một mặt xoa dịu dư luận bằng cách cấp cho Hoa kiều thất nghiệp mỗi người được 200.000 đồng, nhưng hiệu lực của Dụ lệnh vẫn cứ y nguyên giá trị, bất dịch.


Cảnh sát Sài Gòn được phép bắt giữ và tịch thu thẻ căn cước Đài Loan của Hoa kiều để cấp lại thẻ căn cước Việt Nam cho họ. Cửa hàng của Hoa kiều kinh doanh 11 ngành nghề nói trên phải gấp rút chuyển tên người sở hữu để đứng tên thay thế.

Kinh tế miền Nam trong tháng 7 và 8-1957 bị ngừng trệ, hầu như tê liệt. Người Tàu ồ ạt rút hết tiền ký thác trong các ngân hàng, tổng số tiền rút ra từ tháng 11-1956 đến tháng 7-1957 là từ 800 triệu đến 1,5 tỷ đồng, tương đương 1/6 lượng tiền mặt đang lưu hành trên toàn quốc. Đồng bạc Việt Nam tại thị trường chứng khoán Hồng Kông liên tiếp bị mất giá từ 35 đồng/1 USD (1956) tăng lên 90 đồng (1957) và 105 đồng trên thị trường chợ đen.


Tiếp sức đồng hương, Hoa kiều Đông Nam Á cũng làm áp lực bằng cách tẩy chay hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam mà không do người Tàu bán. Cụ thể Hồng Kông từ chối mua 40.000 tấn gạo mặc dầu đã ký hợp đồng từ trước, số gạo này khi được chở qua Singapore thì cũng bị người Tàu ở Singapore từ chối không chịu mua. Báo chí Hoa ngữ ở Đông Nam Á đồng loạt lên tiếng đả kích chế độ Tổng thống Diệm bài Hoa. Đảng Cộng sản Trung Quốc nhân dịp này cũng chỉ trích chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa nhằm tranh thủ cảm tình của người Tàu hải ngoại. Đảng Cộng sản Việt Nam đẩy mạnh “công tác Hoa vận” ở Sài Gòn – Chợ Lớn, lôi kéo người Tàu theo “cách mạng”. Nền Đệ Nhất Cộng hòa vừa mới thành lập đã gặp phải ngay cơn thử thách lớn, tình hình cực kỳ nguy hiểm quyết định tồn vong của chế độ Cộng hòa non trẻ.


Thật ra, người Tàu cũng nhận biết sự kinh doanh miễn thuế của mình là bất lương; không gì đáng hổ thẹn bằng thụ hưởng lợi ích từ một đất nước đã cưu mang mình mà lại không phải đóng góp gì để đền đáp lại. Nhưng vấn đề họ lấy làm lo sợ nhất khi nhập Việt tịch là… phải thi hành quân dịch. Đã xa rồi cái thời người Tàu liều thân xông pha sa trường đền ơn tri ngộ của các Chúa Nguyễn. Những thế hệ người Tàu sau này lớn lên đã trở lại bẩm tính thiên phú là kinh doanh, mưu cầu lợi nhuận, họ không muốn phải tham gia vào trò chơi chiến tranh của người Việt. Tài sản dẫu tiêu tán thì vẫn có thể gầy dựng lại, nhưng sinh mạng nếu lỡ mất đi thì không thể thu hồi.


Giờ đây, họ bị bắt buộc phải lựa chọn giữa việc tiếp tục kinh doanh với điều kiện phải cho phép con em mình tham gia chiến tranh, sinh tử ở Việt Nam; và một bên là phải rời bỏ mảnh đất mình đã mấy đời gắn bó này. Huống chi, Hoa Kỳ đang ủng hộ Việt Nam Cộng Hòa, cơ hội đầu tư đang mở rộng hơn bao giờ hết. Cuối năm ấy, hầu hết Hoa kiều đang sinh sống ở Nam Việt Nam đều nhập Việt tịch, chỉ hơn 40.000 người “hồi hương” về Đài Loan. Cuối cùng “cắc chú” đã phải hiểu ra: không thể sinh sống trên một đất nước mà không tuân thủ luật pháp của nước đó. Từ nay, máu của người Tàu đã cùng hội nhập với máu của người Việt, để gìn giữ nền Cộng Hòa.


Lê Vĩnh Huy.

2232.Vì sao ăn khoai lang buổi sáng tốt hơn 10 năm uống thuốc bổ?

 sưu tầm 


Vì sao ăn khoai lang buổi sáng tốt hơn 10 năm uống thuốc bổ?


🍠🍠 Việc ăn sáng đều đặn có thể giảm thiểu các nguy cơ mắc bệnh và củng cố sức khỏe của bạn. Vậy buổi sáng chúng ta nên ăn gì để đảm bảo đủ calo và dưỡng chất đây? Hãy ăn khoai lang bạn nhé!


✅Chống ung thư

Một nghiên cứu do ĐH Harvard (Mỹ) thực hiện trên 124.000 người cho thấy, những người tiêu thụ thức ăn giàu carotene trong chế độ ăn uống thường xuyên của mình giảm tới hơn 32% nguy cơ ung thư phổi.


✅ Chống lão hóa

Khoai lang có chứa nhiều chất chống lão hóa, tăng độ đàn hồi cho da rất hiệu quả. Ăn khoai lang 1 – 2 lần/tuần sẽ giúp da được cung cấp nhiều sinh tố có lợi, chất khoáng, chất xơ,… không những làm căng da mà còn làm mịn phẳng các nếp nhăn trên mặt. Bạn cũng có thể làm khoai lang hấp nghiền nhuyễn rồi trộn với sữa chua để tạo thành món ăn chống lão hóa rất tốt cho da.


✅ Cải thiện đường huyết

Khoai lang có vị ngọt tự nhiên nhưng không làm tăng lượng đường trong máu, lượng đường trong khoai lang từ từ thẩm thấu vào máu giúp duy trì đường huyết ở mức ổn định, cân bằng nguồn năng lượng cho cơ thể.


✅ Tăng cường thị lực

Beta carotene là tiền chất của vitamin A. Vitamin A giúp duy trì đôi mắt sáng và làn da khỏe mạnh.


✅ Giúp giảm cân hiệu quả

Khoai lang có hàm lượng tinh bột thấp, không chứa chất béo giúp ngăn ngừa quá trình chuyển hóa thức ăn thành mỡ tích tụ. Ngoài ra ăn khoai lang còn cho bạn cảm giác no lâu hơn, cơn đói của bạn sẽ đến chậm hơn, vì thế khoai lang là món ăn rất quan trọng với các bạn đang muốn giảm cân nhanh.


Bổ sung ngay món ăn nào vào bữa sáng của bạn thôi nào!!!

Thứ Hai, 30 tháng 8, 2021

2231. TU LUYỆN THÁNG NGÀY

Sưu tầm

NHỎ VÀ LỚN

1. Khi còn nhỏ, ta thường nghĩ rằng biết níu giữ là khôn ngoan. Nhưng khi lớn lên, ta mới nhận ra rằng biết buông bỏ mới là trí tuệ.

2. Khi còn nhỏ, ta thường nghĩ rằng người giàu có là người lấy về rất nhiều. Nhưng khi lớn lên, ta mới biết rằng người giàu có là người cho đi rất lớn.

3. Khi còn nhỏ, ta thường nghĩ rằng mạnh mẽ là vượt qua người khác. Nhưng khi lớn lên, ta mới biết rằng mạnh mẽ là vượt qua chính mình.

4. Khi còn nhỏ, ta thường nghĩ rằng kẻ nói nhiều là kẻ thông minh. Nhưng khi lớn lên, ta mới biết rằng người biết lắng nghe mới là người thông thái.

5. Khi còn nhỏ, ta thường nghĩ rằng nếu ta thắng phải có hơn người thua. Nhưng khi lớn lên, ta mới biết rằng đến nơi là mọi người cùng thắng.

6. Khi còn nhỏ, ta thường muốn sống thật lâu. Nhưng khi lớn lên, ta muốn sống sao cho có ý nghĩa với cuộc đời .

7. Khi còn nhỏ, ta thường muốn người khác chấp nhận mình. Nhưng khi lớn lên, ta nhận ra rằng chỉ cần mình chấp nhận mình là đủ.

8. Khi còn nhỏ, ta mong muốn thay đổi cả thế giới. Nhưng khi lớn lên, ta mong muốn thay đổi chỉ bản thân mình mà thôi.

9. Khi còn nhỏ, ta thường nghĩ rằng khi trưởng thành, ta sẽ không còn bị tổn thương. Nhưng khi lớn lên, ta mới biết rằng, trưởng thành là biết điều chỉnh tiếng khóc về chế độ im lặng.

10. Và khi còn nhỏ, ta thường nghĩ rằng có tiền sẽ có tình yêu, có vật chất người ta sẽ quý,….Nhưng khi lớn lên, ta mới biết rằng KHI LƯƠNG THIỆN BẠN SẼ CÓ MỌI TRÁI TIM. 

Nguồn: (Sưu tầm)

2230.Bà Huyện Thanh Quan, người đi dọc những Đèo Ngang


 Sưu tầm

Bà Huyện Thanh Quan là người không chỉ bị cuốn hút bởi sự suy tàn, mà còn thấy được cả vẻ đẹp của suy tàn. Điều này thường trực trong thi phẩm đến mức thành ám ảnh. Ám ảnh đó ẩn chứa một xung năng vô thức mạnh mẽ mà phân tâm học gọi là bản năng chết (thanatos).


1. Năm 1802, sau khi thống nhất cả nước, Nguyễn Ánh lên ngôi, lấy hiệu Gia Long và định đô ở Huế. Từ đó, Thăng Long mất địa vị đầu não của đất nước về chính trị và văn hóa. Thậm chí, chữ long trong tên gọi Thăng Long vốn là rồng, biểu tượng vương quyền và lý do chọn đô của Lý Thái Tổ, cũng bị đổi thành chữ long là thịnh.


Sự hạ thấp này hẳn làm đau lòng dân chúng Bắc Hà, nhất là các sĩ phu, những người từng ăn lộc nhà Lê như Nguyễn Du, Phạm Quý Thích, thầy học của Nguyễn Lý, thân sinh Bà Huyện Thanh Quan. Nỗi đau ấy, về sau, hẳn còn gia tăng khi cố đô Thanh Long bị đổi thành tỉnh Hà Nội vào năm Minh Mệnh thứ 12 (1831): Kinh thành ngày ấy tỉnh bây giờ!


Năm 1813, trên đường đi sứ Trung Hoa, qua Thăng Long, chứng kiến những đổi thay nơi mình đã từng sống suốt tuổi hoa niên, Nguyễn Du cảm khái:


Thiên niên cự thất thành quan đạo


Nhất phiến tân thành một ố cung


(Nhà lớn nghìn năm thành đường cái


Một mảnh tân thành mất cung xưa)


Nhìn Thăng Long bây giờ, thi nhân nhớ về một Thăng Long ngày xưa. Một nỗi nhớ với từng chi tiết cụ thể, đối lập nhau như nhà/đường, thành/cung, mới/xưa. Và nỗi nhớ càng chi tiết, cụ thể bao nhiêu thì càng chứng tỏ nỗi đau mất biểu tượng ấy lớn bấy nhiêu. Đó là nguồn gốc và cũng là nội dung của một tâm thức chung về sau được gọi là tâm sự hoài Lê mà một lớp người đã từng sống với hoàng triều đeo đẳng.


2. Bà Huyện Thanh Quan (1) là người Thăng Long chính gốc, dù bản thân chưa từng sống với nhà Lê, nhưng hít thở cái tâm thức chung ấy của thời đại, hẳn cũng không tránh khỏi cái tâm sự hoài Lê. Một lần, Qua chùa Trấn Bắc (2), thi nhân thấy:


Trấn Bắc hành cung cỏ dãi dầu


Chạnh niềm cố quốc nghĩ mà đau


Một tòa sen rớt hơi hương ngự


Năm thức mây phong nếp áo chầu


Sóng lớp phế hưng coi như rộn


Chuông hồi kim cổ lắng càng mau


Người xưa cảnh cũ nào đâu tá?


Ngơ ngẩn lòng thu khách bạc đầu. (3)


Trấn Bắc là một hành cung cũ đời Hậu Lê, xưa chúa Trịnh thường đem văn võ bá quan, hoặc cung nữ, tới thưởng ngoạn cảnh Hồ Tây và bày những trò vui nhộn. Vậy mà nay đã trở nên tiêu điều, vắng vẻ, cỏ dãi dầu. Từ đó, thi nhân chạnh nghĩ về nhà Lê Trịnh, như một niềm cố quốc. Chữ chạnh ở đây chỉ là nhân mà nghĩ, do điều gì đó gợi ra mà nghĩ chứ không phải lúc nào cũng đau đáu như những cựu thần nhà Lê. Hơn nữa, thi nhân cũng không nghĩ về chính cái nước cũ ấy, mà chỉ nghĩ đến nó như một niềm, một tâm sự.


Đọc thơ Thanh Quan, nhiều người thắc mắc, sao thi nhân đang sống trên đất nước mình mà lại luôn luôn nói về cố quốc ("Chạnh niềm cố quốc nghĩ mà đau"), luôn nhớ nước ("Nhớ nước đau lòng con quốc quốc")? Có vẻ như có một mâu thuẫn logic nào đó. Thực ra, về mặt xã hội, Bắc Hà (Đàng Ngoài) luôn được coi như một "nước" so với Nam Hà (Đàng Trong) (Xem Hoàng Lê nhất thống chí). Hơn nữa, về mặt tâm lý, cùng một thực tại mà không cùng một khoảnh thời gian thì thực tại đó chưa hẳn đã như nhau. Bởi thế, Nguyễn Bính mới "ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên".


Và, cũng bởi thế, Bà Huyện Thanh Quan nhìn hiện tại mà nhớ đến quá khứ. Thậm chí, nỗi nhớ làm con người như rơi vào ảo giác. Thi nhân thấy quá khứ: một toà sen thơm hơi hương vua còn rớt và năm thức mây lưu lại nếp áo chầu. Sự hoài niệm đã xáo trộn thời gian, biến quá khứ thành hiện tại. Đây là một nét đậm, một nhịp mạnh trong thơ Thanh Quan. Nó không chỉ tạo ra một cảm hứng thế sự, mà còn tạo ra cái nhìn thế giới và cái nhìn nghệ thuật trong thơ bà.


Bà Huyện Thanh Quan sống trong một thời đại (lớn) đầy biến động. Nhà Lê/Mạc, chúa Trịnh/Nguyễn, Tây Sơn/Nguyễn Ánh liên tiếp xuất hiện và liên tiếp sụp đổ. Nguyễn Du, một chứng nhân của thời đại ấy, đã phải thốt lên: "Cổ kim bất kiến thiên niên quốc" (Xưa nay chưa từng thấy triều đại nào tồn tại nghìn năm cả). Bà Huyện Thanh Quan cũng sống trong một không gian nhiều đổi thay. Đó là Thăng Long. Theo quy luật động học văn hóa, trung tâm bao giờ cũng thay đổi nhanh hơn và nhiều hơn ngoại biên. Hơn nữa, ở Việt Nam, mỗi triều đại mới lên ngôi thường phá hủy những công trình của triều đại trước để làm lại từ đầu. Trong một không - thời gian biến dịch như vậy, từ một cảnh quan cụ thể là chùa Trấn Bắc, Bà Huyện Thanh quan dễ khái quát lên thành một quy luật xã hội:


Sóng lớp phế hưng coi đã rộn


Chuông hồi kim cổ lắng càng mau


Quy luật này không chỉ chi phối một cảnh quan nào đó của Thăng Long, mà Toàn bộ Thăng Long và qua đó toàn bộ non sông đất nước. Đây là sự thăng hoa của thơ Thanh Quan và càng ở những bài thơ sau thì sự thăng hoa này càng lớn. Vì thế, trong Thăng Long thành hoài cổ, tâm sự hoài Lê trong Bà Huyện Thanh Quan đã trừu tượng hóa thêm một bậc nữa:


Tạo hóa gây chi cuộc Lý Trường?


Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương


Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo,


Nền cũ lâu đài bóng tịch dương,


Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,


Nước còn cau mặt với tang thương.


Ngàn năm gương cũ soi kim cổ.


Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.


Thi nhân trách con tạo (gây chi) biến cuộc đời thành sàn diễn của những đổi thay. Thoạt tiên vẫn những đối lập xưa/nay ấy: Xưa là lối xe ngựa đi về nhộn nhịp thì nay chỉ có cỏ thu phủ dày; xưa là lâu đài đường bệ mà nay chỉ còn trơ lại nền cũ dưới ánh chiều tà. Rồi xuất hiện thêm một đối lập khác nữa tự nhiên/nhân tạo. Ngày tháng (tuế nguyệt) trôi đi kéo theo những đổi thay (tang thương), nhưng đó là những đổi thay của thế giới nhân tạo, thế giới người, còn tự nhiên (đá, nước) thì vẫn bất biến (trơ gan, cau mặt). Soi vào tấm gương vĩnh hằng của tự nhiên, đời sống nhân tạo từ xưa đến nay (kim cổ) càng trở nên giả tạm và thoáng chốc. Con người đối diện với cảnh tượng này (cảnh đấy, người đây) được thức nhận, tỉnh táo hơn so với con người ảo giác ở chùa Trấn Bắc. Nhưng, vì thế, cũng đau khổ hơn.Và cô đơn hơn.


Đến đây, có thể nói, cái chữ tâm sự hoài Lê ở Bà Huyện Thanh Quan, nếu có thì cũng đã dần dần trở nên rỗng nghĩa, mất nội dung cụ thể. Thăng Long thời Lê chỉ còn là một biểu tượng của một quá khứ vàng son đã một đi không trở lại. Thậm chí chỉ còn là biểu tượng của một dĩ vãng chung chung một hoài niệm, một nỗi nhớ về nỗi nhớ. Nỗi nhớ cấp hai này tạo thành nội dung sống của Bà Huyện Thanh Quan.


3. Được gọi vào Huế làm Cung Trung Giáo Tập, Bà Huyện Thanh Quan giã từ Thăng Long. Những tưởng rằng sự thay đổi không gian sẽ làm thay đổi thời gian. Van lạy không gian xóa những ngày (Hàn Mạc Tử). Nhưng hóa ra phong cảnh không lay chuyển được tâm cảnh, mà, ngược lại, còn bị tâm cảnh nhuộm màu. Điều này có thể thấy rõ khi thi nhân Qua Đèo Ngang:


Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà


Cỏ cây chen đá lá chen hoa


Lom khom dưới núi tiều vài chú


Lác đác ven sông chợ mấy nhà


Nhớ nước đau lòng con quốc quốc


Thương nhà mỏi miệng cái gia gia


Dừng chân đứng lại: trời, non, nước


Một mảnh tình riêng ta với ta.


Cảnh Đèo Ngang thật khác xa với cảnh Thăng Long. Nhiều thiên nhiên hơn, ít nhân tạo hơn. Nhìn gần, thi nhân thấy thiên nhiên cũng chen chúc. Một mặt, cái hữu sinh (cỏ cây) lấn át cái vô sinh (đá), mặt khác, trong giới, hữu sinh, cái thô lậu hơn (lá) lại lấn át cái tinh tế hơn (hoa). Còn nhìn xa: vạn vật thu nhỏ như trong hòn non bộ. Con người thì nhỏ nhoi, cực nhọc (Lom khom dưới núi tiều vài chú), nơi "vui như chợ", "đông như chợ" thì cũng lại thưa thớt (Lác đác ven sông chợ mấy nhà). Thật khác xa với cảnh chen chúc của thiên nhiên. Thực ra, cảnh Đèo Ngang rất hùng vĩ, nhưng trong con mắt tâm trạng của nhà thơ đã trở thành cảnh mọn, thậm chí tiêu điều. Chẳng khác gì sự tiêu điều của Thăng Long. Nội tâm đã chi phối ngoại cảnh.


Đứng trên đỉnh Đèo Ngang, nghe tiếng cuốc kêu, Bà Huyện Thanh Quan nhớ đến nước; nghe chim da da (đa đa, bát cát quả cà, bắt cô trói cột...) kêu, thi nhân thấy thương nhà. Niềm hoài cổ luôn chờ chực sẵn, còn sự đồng âm kia (cuốc là chim và quốc là nước, da da là chim và gia là nhà) chỉ là một cái cớ. Đến đây, thiên nhiên vốn chen chúc tạo thành một hợp thể ở chân đèo, rã ra thành những yếu tố riêng rẽ: trời, non, nước. Và con người cũng trở thành một yếu tố đơn lẻ, ngậm một mảnh tình riêng mà chỉ biết chia sẻ với chính mình (ta với ta).


Bà Huyện Thanh Quan, như vậy, đã vượt qua được một Đèo Ngang địa lý mà không qua nổi một Đèo Ngang tâm lý. Tâm tình hoài cổ vẫn là hành trang của bà trên đường vào Huế. Thậm chí, hành trang ấy càng đi xa càng trở thành một gánh nặng. Nỗi nhớ Thăng Long, nhớ về nỗi nhớ Thăng Long đè nặng tâm hồn người lữ thứ, trở thành nỗi nhớ nhà mỗi khi chiều về trên con đường thiên lý:


Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn


Tiếng ốc xa đưa lẫn trống dồn


Gác mái ngư ông về viễn phố


Gõ sừng mục tử lại cô thôn


Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi


Dặm liễu sương sa khách bước dồn


Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ


Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn.


Chiều hôm nhớ nhà là một tâm trạng cố hữu, thường hằng của động vật, của con người. Mỗi khi ngày hết, mọi sinh linh đều tìm về nhà, tổ ấm, chốn nương thân để được che chở nghỉ ngơi. Bằng những động tác dứt khoát, sảng khoái (gác mái, gõ sừng), ngư ông và mục tử ra về. Và tuy là bến xa (viễn phố) và thôn lẻ (cô thôn), nhưng họ còn có nơi để mà về. Còn con người lữ thứ kia, giống như con chim bạt gió, mặc dù đang dồn bước nhưng không có nhà để mà về. Chỉ có sự nhớ nhà, sự nhớ về sự nhớ nhà. Bởi thế, đường đi không bao giờ kết thúc. Bởi thế lữ khách trở thành một trường lữ, một người đi.


4. Nếu lâu đài ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương được xây dựng bởi những động từ chỉ hành động, tính từ chỉ phẩm chất, và trạng từ chỉ cách thức và mức độ thì tháp (ngà) thơ Bà Huyện Thanh Quan lại chỉ được kiến tạo bằng những danh từ mà phần lớn lại là danh từ Hán Việt: tạo hóa, hý trường, tinh sương, thu thảo, tịch dương, tuế nguyệt, tang thương, kim cổ, đoạn trường, cố quốc, phế hưng, hoàng hôn, ngư ông, mục tử, viễn phố, cô thôn, chương đài, lữ thứ, khoáng dã, bình sa... Nhiều câu thơ của Thanh Quan dường như chỉ là sự ghép lại của những danh từ:


Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo


Nền cũ lâu đài bóng tịch dương  


Danh từ chỉ sự vật ở cấp độ khái niệm. (Ví dụ, nói đến từ bàn, ta hình dung đó là một mặt phẳng, có chân, được dùng để làm gì đó. Còn nếu biết cái bàn đó như thế nào thì phải thêm vào những định ngữ như cái bàn vuông, màu xanh, bằng gỗ, để viết...). Làm thơ bằng những danh từ, nghĩa là Bà Huyện nhìn sự vật ở những bản chất của nó, bỏ qua tất cả những gì là cụ thể, sông động. Một người như thế là giữ một khoảng cách với cuộc sống, xa lánh cuộc đời, lẩn trốn hiện tại. Khoảng cách đó ở nhà thơ còn được nhân lên một lần nữa, bởi các danh từ của Thanh Quan toàn là danh từ Hán Việt.


Cùng chỉ một loài thực vật, nhưng cỏ (thuần Việt) và thảo (Hán Việt) gieo vào tâm trí bạn đọc những cảm xúc và tưởng tượng khác nhau. Cỏ bao giờ cũng gợi nhắc đến một thứ cỏ cụ thể nào đó. Nó đánh thức trong ta những kỷ niệm. Còn thảo thì chỉ là một âm vang xa xôi, trang trọng và nhoè nghĩa. Như vậy, sự khác nhau giữa từ thuần Việt và từ Hán Việt không đơn thuần ở sắc thái ngữ nghĩa, ở độ âm vang của con chữ, mà còn ở một cách nhìn.


Bà Huyện Thanh Quan thường nhìn cảnh vật vào mùa thu: Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo, bằng tấm-lòng-con-mắt-thu: Ngơ ngẩn lòng thu khách bạc đầu. Thậm chí, ngay cả khi thi phẩm không có chữ thu nào, thì bạn đọc vẫn cảm nhận được cảnh ấy, vật ấy đang thu: cỏ dãi dầu, toà sen rớt, thức mây phong, ngàn mai gió cuốn, dặm liễu sương sa, còi mục thét trăng, chài ngư tung gió... Một hồn thu ngấm trong từng con chữ phả vào hồn người đọc: Hơi thu lạnh lẽo khí thu loà (Đỗ Phủ).


Cảnh thu ấy còn được thi nhân nhìn vào buổi chiều, trong bóng chiều tà. Trong 5 bài thơ chắc chắn là của Bà Huyện Thanh Quan thì có đến 4 bài có những từ khác nhau chỉ bóng chiều tà:


Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà


      (Qua Đèo Ngang)


Nền cũ lâu đài bóng tịch dương


    (Thăng Long thành hoài cổ)


Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn


     (Chiều hôm nhớ nhà)


Vàng tỏa non tây bóng ác tà


     (Nhớ nhà)


Với tần số xuất hiện cao như vậy, lại ở vào một vị trí đặc biệt (hầu hết đều ở cuối câu mở đầu thi phẩm), có thể nói, bóng chiều tà chính là từ-chìa khóa để mở vào những tòa lâu đài thơ Thanh Quan. Bóng chiều tà chính là lăng kính để thi nhân nhìn cuộc đời. Dưới bóng chiều tà, cảnh vật mùa thu vốn đã tiêu điều đổ nát càng thêm đổ nát tiêu điều. Nhưng cũng trong ánh chiều tà ấy, sự vật lại bừng sáng lên lần cuối cùng cái huy hoàng của tàn tạ, để rồi vĩnh viễn lịm tắt.


Bà Huyện Thanh Quan không chỉ giữ một khoảng cách với cuộc đời, mà còn giữ khoảng cách với cả chính mình. Khi trên đỉnh Đèo Ngang, thi nhân nói với ta với ta là đã có sự phân thân. Ta tự chia ta thành một cái ta khác để chia sẻ mảnh tình riêng cho bớt cô đơn. Nhưng dẫu sao chữ ta này cũng vẫn là nhân xưng ngôi thứ nhất. Tuy nhiên, điều này chỉ diễn ra một lần, khi cảm xúc của thi nhân lên đến đỉnh điểm. Còn ở tất cả những trường hợp khác, Bà Huyện Thanh Quan đều tự gọi mình ở ngôi thứ ba số ít. Một cách tự xa lạ hóa mình. Đó là người ("Cảnh đấy, người đây luống đoạn trường"); "Kẻ chốn Chương Đài người lữ thứ"), kẻ ("Mấy kẻ tình chung có thấu là...", đặc biệt là khách ("Ngơ ngẩn lòng thu khách bạc đầu"; "Dặm liễu sương sa khách bước dồn"; "Dặm liễu bâng khuâng khách nhớ nhà").


Tự nhận mình là khách, Bà Huyện Thanh Quan không chỉ gián cách mình với mình, mà, quan trọng hơn, gián cách mình với cuộc đời. Bà khẳng định mình chỉ là một người khách đến với cuộc đời này. Đến rồi đi không có gắn bó gì hết. Nhất là ở đây và bây giờ. Điều này còn được thể hiện rõ một lần nữa qua nhan đề các bài thơ của thi nhân. Hai nhan đề có từ qua (Qua Đèo Ngang, Qua chùa Trấn Bắc), hai có từ nhớ (Chiều hôm nhớ nhà, Nhớ nhà), một có từ hoài (cổ), cũng là nhớ (Thăng Long thành hoài cổ). Như vậy, khoảng cách giữa thi nhân và cuộc đời được thiết lập ở cả ba cạnh khía: qua : không gian; hoài cổ: thời gian và nhớ nhà: tâm lý. Nghĩa là, người lữ khách ấy chỉ có đi qua cuộc đời, không ghé lại đây để rồi chỉ có nhớ, hoài, nhớ hoài, hoài nhớ.


5. Mùa thu là mùa tàn của một năm. Chiều tà là giờ tàn của một ngày.


Thơ Bà Huyện Thanh Quan là thơ mùa thu và chiều tà. Thời gian tàn tạ ấy lại gắn với không gian đổ nát: một tòa thành cổ, một ngôi chùa hoang vắng, lối xưa nền cũ của những lâu đài cung điện, một cảnh đèo heo hút, hoang vu, một bến sông xa, một bãi cát rộng, một con đường... Cảnh vật trong không - thời gian ấy đều hướng tới một sự suy tàn, tiêu vong. Mặc dù buồn về những cảnh tượng như vậy, nhưng thi nhân vẫn thấy được vẻ đẹp của sự tiêu vong. Thậm chí, càng tàn tạ càng bừng lên một vẻ đẹp khó hiểu. Tâm trạng này cũng giống như cái nhìn của Tản Đà sau này: "Lá sen tàn tạ trong đầm/Lặng mang giọt lệ âm thầm khóc hoa" (Cảm thu tiễn thu). Tâm lý như vậy hẳn ẩn sâu bên trong một xung năng vô thức nào đó.


Thơ Bà Huyện Thanh Quan còn là sự lặp đi lặp lại dài dài những vấn đề tư tưởng nghệ thuật ở cả phương diện vĩ mô lẫn phương diện vi mô. Trước hết là sự trùng lặp về chủ đề: cả 5 bài thơ đều là sự hoài niệm quá khứ. Cảnh tượng, phong cảnh đều là mùa thu và chiều tà. Tâm cảnh đều là sự nhớ nước, thương nhà. Nhân vật trữ tình bao giờ cũng là người đi. Sau đó là sự lặp lại của từ ngữ như thu, bóng xế tà, kim cổ (gương cũ soi kim cổ chuông hồi kim cổ), cỏ (cỏ dãi dầu; cỏ cây chen đá)...


Đặc biệt là sự lặp lại với tần số cao những từ chỉ tâm trạng của tác giả: niềm cố quốc, nhớ nước, thương nhà, nỗi hàn ôn, kẻ tình chung, mảnh tình riêng... Như vậy, Bà Huyện Thanh Quan là người không chỉ bị cuốn hút bởi sự suy tàn, mà còn thấy được cả vẻ đẹp của suy tàn. Điều này thường trực trong thi phẩm đến mức thành ám ảnh. Ám ảnh đó ẩn chứa một xung năng vô thức mạnh mẽ mà phân tâm học gọi là bản năng chết (thanatos).


Đến đây, người ta bỗng thấy ý nghĩa sâu xa, nhiều tầng lớp trong nỗi buồn, sự hoài niệm quá khứ, sự cách vời cuộc sống hiện tại của Bà Huyện Thanh Quan. Căn cốt của nỗi buồn đó là sự cuốn hút của thi nhân về phía thanatos, sự nghỉ ngơi vĩnh cửu, sự yên tĩnh đời đời. Còn nỗi buồn về thế sự đổi thay, mọi thứ đều giả tạo, mong manh, thoáng chốc chỉ là "bản chất hàng hai", nói theo ngôn từ của triết gia Trần Đức Thảo. Như vậy, cái "tâm sự hoài Lê" kia chỉ là tấm áo khoác, là duyên cớ, hay "bản chất hàng ba", cái trên cùng, bề mặt.


6. Như vậy, với sự hướng về bản năng chết, Thanh Quan càng là một đối tượng của Hồ Xuân Hương. Sự đối trọng trên mọi cấp độ. Thơ Xuân Hương, như đã nói, được kiến tạo bằng những động từ chỉ hành động, thậm chí hành động cơ bản nhất của con người như đạp, móc, xuyên..., bằng tính từ chỉ phẩm chất, trạng từ chỉ cách thức và mức độ cùng cực. Hồ Xuân Hương, bởi thế, là người áp sát với đời sống, người không khoảng cách với cuộc đời, người nhìn cuộc đời trong sự chuyển động, sự vận động không ngừng của nó, trong màu sắc, hình khối, kích thước, âm thanh của nó. Đó là một thi nhân yêu sự sống, tôn sùng sự sống. Hồ Xuân Hương là người có một bản năng sống (éros) mạnh mẽ.


Hồ Xuân Hương, bởi thế, không chịu nằm yên trong khuôn khổ thơ Đường, một thể loại thơ trang nghiêm, hài hòa đến tuyệt đối. Thi nhân đưa vào thơ mình vô vàn những chi tiết tỉ mỉ, cụ thể, thậm chí sống sít của đời sống, những từ láy đôi láy ba hết sức thừa thãi, những từ vận hiểm hóc, thách đố, đặc biệt những cặp câu thực và luận, mặc dù đối vần rất chỉnh, nhưng ít nhiều đã ngả sang đối xứng để ám chỉ những chuyện tính giao nam nữ như:


Trai du gốc hạc khom khom cột


Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng


                (Đánh đu)


Hai chân đạp xuống năng năng nhắc


Một suốt đêm ngang thich thích mau


                (Dệt cửi)


Toàn bộ thơ Hồ Xuân Hương nhìn chung, vừa tuân theo những nguyên tắc, luật lệ của thơ Đường vừa chống lại nó. Bà đã phá vở tính đơn giản, kiệm từ, trang trọng cách vời của nó. Tuy nhiên, đó chỉ là sự phá vỡ cái hài hòa cục bộ, tức nội bộ bài thơ, để sau đó lại thiết lập nên một hài hòa mới, rộng hơn, giữa bản thân bài thơ và vũ trụ quanh bài thơ đó. Vì thế, Hồ Xuân Hương đã sáng tạo ra một thứ thơ Đường luật mới. Đó là tinh thần éros.


7. Bà Huyện Thanh Quan, ngược lại, vẫn trung thành với thể thơ luật Đường chính thống. Thơ Thanh Quan được làm bằng những danh từ, lại là danh từ Hán Việt, nên tạo ra được một sự sang trọng, cách vời, thấm chí uy nghi đường bệ. Thơ bà hoàn toàn không có các nối từ, "từ nước", mà toàn những từ "đặc". Phép tính lược được vận dụng đến mức tối đa. Không gian và thời gian thống nhất với nhau. Con người và vũ trụ thống nhất với nhau. Mỗi bài thơ là một thế giới thống nhất, biệt lập, tự trị. Năm bài thơ cũng tạo thành một thế giới thống nhất biệt lập và tự trị. Một Ngũ Hành Sơn trên cánh đồng thơ Việt.


Thơ Đường Bà Huyện Thanh Quan, điều quan trọng là vẫn giữ được hồn Đường. Đây là điều ít nhà thơ đạt được, kể cả những thi nhân Trung Hoa sau Đường. Bởi vậy, nếu nói về việc làm thơ nôm Đường chuẩn nhất, Đường nhất ở Việt Nam thì thứ nhất phải kể đến Bà Huyện Thanh Quan. Sự Việt hóa thơ Đường ở thi nhân, nếu có, chính là việc nhà thơ kín đáo để lộ nữ tính của mình vào bài thơ. Thi nhân nói nhiều đến mai, liễu vốn là những từ chỉ phụ nữ trong thi liệu Đông phương.


Nguyễn Du đã từng khen chị em Thuý Kiều là mai cốt cách tuyết tinh thần, rồi Bồ liễu thôi đành phận mỏng manh. Đặc biệt hơn, Bà Huyện Thanh Quan khi dùng chữ kẻ chốn Chương Đài thì đã nói về liễu Chương Đài, về người phụ nữ. Ngoài ra, thơ Thanh Quan cũng nói nhiều đến cỏ, thứ thực vật rất gần với thân phận phụ nữ. Chính nữ tính này của thi nhân đã làm mềm hóa, thân mật hóa thể thơ Đường luật vốn trang nghiêm, đôi lúc đến lạnh lùng.


Nét riêng nữa của thơ Đường Thanh Quan là xuất hiện thực hiện người lữ thứ. Người-đi-đường-chứng-kiến kể lại những "điều trông thấy" của mình, cảm xúc của mình, nỗi buồn nhớ của mình bằng một giọng điệu tâm tình, thủ thỉ, thỉnh thoảng lại xen tiếng thở dài, nhưng cũng không hiếm khi có sự nồng ấm của thân xác (như khi gọi niềm tâm sự của mình là nỗi hàn ôn!). Thơ Đường, do ảnh hưởng của Thiền học, vốn là một thứ mỹ học tĩnh. Nhưng với sự xuất hiện con người lữ thứ, thơ Đường Thanh Quan đã bắt đầu có sự chuyển dịch, tuy còn rụt rè về phía động. Đó là ảnh xạ của ý thức cá nhân đã bắt đầu thức tỉnh trong lớp người tài tử đương thời.


Tuy số lượng bài để lại không nhiều, nhưng, có thể nói, thơ Thanh Quan là những dấu son của thơ Việt Nam trung đại. Nghĩ đến Bà Huyện Thanh Quan tôi cứ nghĩ tới bức chân dung Người đàn bà xa lạ của họa sĩ Nga Kramskoi; ngồi bất động trên xe ngựa và sau lưng là kinh thành Peterburg mù sương. Cũng đẹp một vẻ đẹp sang trọng, đài các và cách vời như thế. Còn nghĩ đến thơ bà, tôi mường tượng đến một chiều thu, khi mặt trời đã tắt, nhưng còn hắt lên nền trời những dải sáng vàng rực, thuần khiết, và người thợ trời nào đã cắt dải sáng đó thành những bài thơ Bà Huyện Thanh Quan.


____________________


 


Chú thích :


     1. Bà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh, người Nghi Tàm, huyện Vĩnh Thuật, cạnh Hồ Tây Hà Nội bây giờ. Không rõ năm sinh và năm mất. Nhưng căn cứ vào năm sinh và năm mất của chồng bà là Lưu Nguyên Ôn 1804 - 1847 thì có thể đoán chắc một điều là bà sống vào thời Thăng Long nhà Nguyễn, thậm chí khi Thăng Long đã đổi thành tỉnh Hà Nội.


     2. Thơ Bà Huyện Thanh Quan còn lại không nhiều. Theo nhiều học giả thì gồm những bài sau. 


     1. Thăng long thành hoài cổ


     2. Qua chùa Trấn Bắc


     3. Qua Đèo Ngang


     4. Chiều hôm nhớ nhà


     5. Nhớ nhà


     6. Tức cảnh chiều thu


     7. Cảnh đền Trấn Võ


     8. Cảnh Hương sơn


     Theo chúng tôi thì 4 bài đầu là hoàn toàn chính xác của Bà Huyện Thanh Quan bởi có sự thống nhất từ tư tưởng đến phong cách nghệ thuật, bài thứ 5, Nhớ nhà, như là một dị bản của Chiều hôm nhớ nhà, hai bài 6, 7, xét từ phong cách thì không giống phong cách Bà Huyện Thanh Quan mà giống phong cách Hồ Xuân Hương nên chúng tôi cho là của Bà Chúa Thơ Nôm (xem thêm chuyên luận Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực của chúng tôi), cuối cùng bài 8 cũng không giống với tư tưởng và phong cách Bà Huyện Thanh Quan.


     3. Câu này nhiều bản chép là Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu, nhưng chúng ta thấy nó mang không khí của Hồ Xuân Hương, còn Ngơ ngẩn lòng thu khách bạc đầu thì không chỉ hợp với phong khí của bài thơ mà còn hợp với phong cách của Bà.

Chủ Nhật, 29 tháng 8, 2021

2229.NHỮNG NGƯỜI ĂN MÀY DƯỚI THỜI PHÁP THUỘC

 

sưu tầm 


Từ năm 1863 đến 1886, đê Văn Giang vỡ tới 18 lần. Vỡ đê, người dân chỉ còn cách đi xin ăn nên có câu thành ngữ “Oai oái như phủ Khoái xin ăn”.


Ca dao tục ngữ Hà Nội xưa cũng có câu: “Đông thành là mẹ, là cha/Đói cơm rách áo thì ra Đông thành”.Chợ Đông thành (tương ứng với các phố Hàng Than, Hàng Giấy, Hàng Đường, Hàng Ngang, Hàng Đào… bây giờ) là chợ lớn nhất Thăng Long có từ thời Hậu Lê. Chợ sầm uất, bán buôn đủ các mặt hàng. Ăn mày đến đây luôn được người bán hàng, người đi chợ cho vài chinh, gạo hay cơm. Không chỉ ở chợ Đông thành, Thăng Long còn có 8 chợ lớn khác nằm rải rác ở các phường. 


Trong “Vũ Trung tùy bút”, Phạm Đình Hổ viết: “Vào những năm lũ lụt hay mất mùa, dân đói ăn từ các nơi đổ về chợ xin ăn, trông rách rưới và thương tâm, người đi chợ không nỡ ngoảnh mặt đi qua”. Điều đó cũng cho thấy tấm lòng “lá lành đùm lá rách” của người dân đất Kẻ Chợ.


Đến đời vua Tự Đức, ăn mày dồn về Hà Nội nhiều hơn. Ngoài nguyên nhân mất mùa, còn có nguyên nhân nữa là xã hội giai đoạn này phân hóa ngày càng sâu sắc, dân chúng ở quê đói kém, nợ nần buộc phải bán tư điền cho chức sắc trong làng. Không còn đất canh tác, không có nghề thủ công, họ chỉ còn cách đi ăn mày. Phillip Papine, tác giả của cuốn “Lịch sử Hà Nội” đã viết: “Không còn đất, một bộ phận nông dân trở thành kẻ làm thuê và lang thang ra thành phố xin ăn”.


Chiếm được Nam kỳ, thực dân Pháp bắt đầu thực hiện kế hoạch đánh chiếm Bắc kỳ. Năm 1873, quân Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ nhất, chiếm được thành rồi lại phải rút, nhưng họ cũng buộc vua Tự Đức phải ký hiệp ước cấp đất cho Pháp mở lãnh sự ở khu Đồn Thủy (nay là khu vực phố Phạm Ngũ Lão). Lại thêm quân Cờ đen quấy phá nên nông dân một số tỉnh bỏ ruộng, buôn bán cũng bị đình trệ làm kinh tế sa sút, nạn đói diễn ra ở nhiều nơi. 


Trong thư gửi cho Chính phủ Pháp ngày 30-4-1876, Kergaradec, Lãnh sự của khu nhượng địa Đồn Thủy viết: “Cứ 5 ngày một lần, ăn mày ở thành phố và các vùng lân cận, một đội quân thực sự chen nhau ở Trường Thi (nay là Thư viện Quốc gia). Người ta cho từng người vào một và nhận được nửa cân gạo. Sau đó, cả 9 cửa cùng mở để mọi người đi ra. Tuy nhiên, chút gạo bố thí nhỏ nhoi đó vừa đủ một ngày nhưng người ta cũng chỉ phát cho người già, trẻ em, phụ nữ và người tàn tật. Những người đàn ông có vẻ kiếm sống được đều bị đám lính xua đuổi rất kiên quyết. Nhưng lần phát chẩn cuối cùng vẫn còn 22.000 người tới nhận”.


Năm 1882, thực dân Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ hai, sau đó tiến hành bình định các tỉnh trung du và miền núi Bắc kỳ, trấn áp phong trào Cần vương. Chiến trận diễn ra ở nhiều tỉnh làm dân hoảng loạn bỏ quê ra Hà Nội. Trong hồi ký “Ở Bắc kỳ – Ghi chép và kỷ niệm” (Au Tonkin – Notes et souvenirs, xuất bản 1925), Bonnal (Công sứ Hà Nội 1883-1885) viết: “Hà Nội bị xâm chiếm bởi hàng nghìn người từ các tỉnh lân cận đổ về. Những toán đàn bà, trẻ con rách rưới bám theo binh lính của chúng ta khi đi dạo trong những phố buôn bán, nơi rất khó vạch ra lối đi ngay khi vung gậy xua đuổi. Quang cảnh của những sự khốn cùng ấy mới chỉ là đáng buồn nhưng khi gặp phải một toán quân hủi đến cản đường trong phố thì một người Âu kém tế nhị nhất cũng phải tháo chạy càng nhanh càng tốt. 


Người ta nhìn thấy họ nằm lăn ra trên những manh chiếu rách, chân tay vặn vẹo những tư thế kỳ cục, không còn giọng nói để cất lên lời xin bố thí”.

Đầu thế kỷ XX, ăn mày ngồi la liệt, bày biện đủ thứ hình ảnh đau khổ kêu khóc có bài ở Ô Cầu Dền vì Sở Cẩm không cho ăn mày vào nội thành. Tuy nhiên cũng có người trốn vào nhưng lại bị cảnh sát bắt đem ra cửa ô hay xua đi. Hà Nội phát triển về phía tây và phía nam, chính quyền không ngăn nổi ăn mày. 


Những năm 1920 đã xuất hiện “Ngõ ăn mày” ở gần Ô Chợ Dừa (nay là ngõ Đoàn Kết phố Khâm Thiên). Họ dựng lều sơ sài bên những vùng lầy lội và hồ ao đầy cỏ dại, ban ngày kéo nhau đi ăn xin, tối về ngủ. Năm 1945, lũ lụt, mất mùa, chiến tranh, quân Nhật bắt phá lúa trồng đay đã khiến dân chết đầy đường Hà Nội. Các hội thiện cùng chính quyền phải đi thu gom xác chết mang chôn ở nghĩa trang Hợp Thiện (nay là khu vực Nhà máy sợi Hà Nội ở phố Minh Khai).


Nguồn: THEO DÒNG SỬ VIỆT

Thứ Sáu, 27 tháng 8, 2021

2228.ĐỌC SÁCH ĐÚNG KIỂU: ĐỌC LÀ PHẢI...QUÊN





Nói về phương pháp đọc sách, và câu hỏi tôi thường gặp nhất là:

“Đọc để làm gì nếu đằng nào tôi cũng sẽ quên?”

Paul Graham, founder của Y Combinator, một nơi chuyên ươm mầm những tài năng kinh doanh trẻ, cũng đặt câu hỏi tương tự trong tiểu luận How You Know:
“Tôi đã đọc Chronicles of the Fourth Crusadecủa Villehardouin ít nhất hai lần, có lẽ là ba. Thế nhưng nếu tôi phải viết ra tất cả những gì tôi nhớ về quyển sách, tôi ngờ rằng tôi không viết kín nổi một trang. Nhân nó lên hàng trăm lần, và tôi thấy ngợp khi nhìn vào giá sách của mình. Đọc sách để làm gì nếu tôi chẳng nhớ gì hết?”

Nhiều người cũng có nỗi sợ này, rằng chúng ta sẽ “đánh mất” tri thức mà chúng ta vừa rút được từ quyển sách.

Nỗi sợ ấy thực ra không có căn cứ.

Trước hết, nếu bạn yêu sách vở, trí nhớ không bao giờ là vấn đề đáng ngại. Nếu tôi đọc chỉ vì tôi thích thì quên cũng có sao đâu? Tôi sẽ thấy mỗi lần đọc đều như lần đầu tiên, cứ thế bao nhiêu lần tùy thích – đối với người yêu sách, còn món quà nào đáng quý hơn?

Nhưng nhiều khi ta đọc không chỉ vì thích. Chúng ta đọc để thu lượm thứ gì đó.

Có nhiều cách ghi nhớ những gì bạn đọc được (ghi chú, tóm tắt, giảng bài…), nhưng Paul Graham có một quan điểm thú vị hơn.

📍Quên Nhưng Không Quên
Nghĩ về việc quên sạch cuốn Chronicles of the Fourth Crusade, Graham nhận ra rằng dù ông quên những chi tiết như sự kiện, ngày tháng, ông lại nhớ một thứ quan trọng hơn:
“Để đánh giá xem mình học được gì từ Chronicles of the Fourth Crusade, tôi không hỏi xem mình nhớ những gì mà tôi nhìn vào mental model (hình mẫu trong tâm trí) của những cuộc thập tự chinh, Venice, văn hóa thời trung cổ, cuộc vây thành,…hoa trái của việc đọc sách có vẻ bé nhỏ, nhưng thực ra không phải vậy.”

Đọc sách không chỉ để nhớ tên, ngày tháng, sự kiện và lưu trữ nó trong đầu như một cái máy. Thông qua mental model, sách thay đổi thực tại mà chúng ta cảm nhận.

Mental model giống như cặp kính, nó làm thay đổi màu sắc và hình thù những gì ta nhìn thấy. Một phần nhỏ của sự cảm nhận thực tại là do di truyền hoặc văn hóa (người Mỹ và người Nhật tập trung vào những phần rất khác nhau trên cùng một bức tranh), nhưng phần lớn thế giới quan của chúng ta được hình thành qua trải nghiệm – và trải nghiệm ấy bao gồm cả những cuốn sách ta đọc.

“Thế giới quan của bạn là sự kết hợp giữa những gì bạn đọc và bạn đã trải qua. Ngay cả khi bạn quên, ảnh hưởng của nó đối với thế giới quan trong bạn vẫn tồn tại. Đầu óc bạn khi ấy giống như một phần mềm bạn viết ra nhưng đã quên mất code. Nó hoạt động, nhưng bạn không hiểu tại sao.”

Lấy Sherlock Holmes làm ví dụ. Tôi không nhớ được gì nhiều từ các câu chuyện, ngoài hình ảnh rời rạc về ma túy, chó…Tôi không nhớ ai giết ai hoặc Sherlock nói gì, nhưng cuốn sách cho tôi một điều: nó dạy tôi cách suy nghĩ.

📍 Đọc Để Tạo Model
Không phải cuốn sách nào cũng giống nhau, từng trang trong cuốn sách cũng vậy. 

Khi chúng ta đọc, có những câu hoặc ý tưởng nổi bật lên so với những cái khác.
Lăng kính tâm hồn của chúng ta sẽ lựa chọn và gạch chân nội dung phù hợp nhất vào thời điểm đó.

Dù mắt đọc tay giở từ trang đầu đến trang cuối nhưng thực ra chúng ta không bao giờ đọc được toàn bộ một cuốn sách – mental model đảm bảo rằng chỉ những thông tin phù hợp mới được tiếp nhận.

Khi tôi đọc sách, tôi tin tưởng vào cảm giác này.

Nếu có thông tin nào hiện rõ trong đầu tôi, khả năng cao là thông tin đó quan trọng. Vì vậy tôi viết ghi chú ra lề. Việc này giống như trò chuyện với tác giả, và nó giúp cập nhật model sẵn có trong đầu tôi.

📍 Đọc Lại
Đây là mẹo thứ hai.

Nếu não chúng ta liên tục nâng cấp mental model, vậy thì chúng ta hóa ra không bao giờ nhìn thực tại theo một cách nhất định. Điều này cũng có nghĩa là bất cứ cuốn sách nào cũng sẽ khác đi nếu bạn đọc lại nó.

“Đọc và trải nghiệm luôn luôn được “lập trình” tại thời điểm nó xảy ra, sử dụng trạng thái của não vào thời điểm đó. Cùng một cuốn sách được đọc tại những thời điểm khác nhau sẽ được não tiếp nhận theo những cách khác nhau. Vậy thì những cuốn sách quan trọng cần phải được đọc lại rất nhiều lần. Trước kia tôi luôn luôn cảm thấy khó chịu khi phải đọc lại một cuốn sách. Tôi đã vô tình coi đọc cũng như những công việc khác, nghề mộc chẳng hạn, nơi mà “làm lại” chứng tỏ bạn đã làm sai nó lần đầu.” – Paul Graham

Seneca đã viết từ hơn 2000 năm trước:
“Người có vấn đề tiêu hóa thì chấm mút mỗi thứ một tí; thức ăn phong phú quá khiến dạ dày bị mệt mỏi chứ không được nuôi dưỡng. Vậy hãy luôn đọc những tác giả uy tín, và ngay cả khi bạn muốn quay ra đọc người khác, hãy cứ quay lại với những tác giả này. Mỗi ngày học một chút để tránh nghèo khổ, tránh cái chết, và cứ như thế, tránh mọi tai họa trên đời. Và khi bạn đã lướt qua nhiều đề tài, hãy chọn một thôi để suy nghĩ và tiêu hóa nó trong ngày hôm đó.”

Sau khi chán lang thang giữa hàng chồng sách trong thư viện, tôi luôn luôn quay về với một vài tác giả mà thôi. Và dù cho có quay lại bao nhiêu lần, họ luôn luôn nói với tôi những điều mới mẻ.

Nguồn: https://chiep.co/doc-sach-dung-kieu-doc-la-phaiquen/
Dịch từ “It’s Okay to “Forget” What You Read” – Charles Chu

#Tramdoc #Trạm_đọc #Readstation
____________________________
📌 Đừng quên theo dõi Trạm Đọc tại các kênh sau nhé:
Shopee: http://ldp.to/Shopee_Tramdoc 
Youtube: http://ldp.to/youtube_tramdoc
Spotify: http://ldp.to/Spotify_Tramdoc
Tiktok: http://ldp.to/Tiktok_Tramdoc

Thứ Năm, 26 tháng 8, 2021

2227.NGƯNG ẢO TƯỞNG, KHÔNG AI CHÚ Ý ĐẾN BẠN ĐÂU

Sưu tầm 
Dù bạn có đang bước đi trên phố với quả túi hàng hiệu hay là bạn lỡ mặc áo ngược, chưa chắc mọi người đã để ý đến bạn.

Có một vài tin tốt dành cho những người hay để ý mình trước đám đông vì những điều nhỏ nhặt. Mấy vết ố cà phê trên áo sơ mi, khuyên tai lệch đôi lấy nhầm vào buổi sáng hay quả đầu nham nhở mới cắt của bạn, mọi người thường không để ý mấy cái đó nhiều như bạn nghĩ đâu.

Dù cho bạn có cảm giác rằng mấy cái vết dơ hay lỗi thời trang đó sẽ khiến mọi người dồn hết sự chú ý vào bạn, nhưng một nghiên cứu tâm lý xã hội đã chỉ ra điều ngược lại. Một khảo sát cổ điển vào những năm 1990 đã cho các ứng viên mặc áo phông có hình gương mặt của ca sĩ Barry Manilow và bước vào một căn phòng đông người. Sau đó, khi  hỏi các ứng viên, có bao nhiêu trong số những người trong phòng mà họ nghĩ rằng đã nhìn thấy hình họa tiết trên áo phông, câu trả lời thường rất nhiều. Tuy nhiên, khi hỏi ngược lại người trong phòng, chỉ có một nửa trong số họ để ý tới.

Và giờ, đến lượt tin xấu. Hầu hết khi chúng ta đều cảm thấy quá bận tâm vào những vấn đề khác mà không chú ý đến mình, thì lúc ấy bạn đang bị quan sát nhiều hơn bạn nghĩ. Tôi cùng một vài đồng nghiệp cũng đã nhấn mạnh điều này trong một vài nghiên cứu đăng trên tạp chí mục Nhật ký tính cách và Tâm lý xã hội.

Trong một trường hợp, chúng tôi yêu cầu hai người lạ đến phòng nghiên cứu cùng một thời điểm. Họ ngồi ở phòng chờ và được thông báo rằng lịch thí nghiệm sẽ lùi lại một chút. Họ cũng được mời đọc báo hoặc làm bất cứ điều gì giết thời gian trong khi chờ đợi. 5 phút sau, khi người hướng dẫn quay trở lại và thông báo cho hai ứng viên sẵn sàng tham gia, cô dẫn hai người vào hai căn phòng khác nhau.

Nhưng có một điều họ không biết là thí nghiệm thực sự đã bắt đầu ngay từ khi họ bước chân vào phòng chờ. Mục đích thực sự của việc buộc họ chờ đợi chính là đưa cho họ cơ hổi để quan sát, và cảm thấy bị quan sát hay không từ phía người đối diện.

Một khi các ứng viên đã vào phòng riêng, một trong hai người được yêu cầu viết ra những điều anh ta/chị ta quan sát và nghĩ về người còn lại. Việc này chứng tỏ mội người đã để ý ở mức độ bao nhiêu đến người khác. Ứng viên còn lại sẽ viết ra những điều mà anh ta/chị ta nghĩ rằng người còn lại đã nghĩ về mình. Hành động này để ước lượng chính bản thân họ đã quan sát mình như thế nào.

Cho dù rằng cả hai người đều bí mật quan sát tất cả những chi tiết về người kia, quần áo, tính cách, tâm trạng, nhưng chúng tôi phát hiện ra rằng cả hai đều tin rằng người đối diện hoàn toàn không để ý đến họ.

 

Tương tự, mọi người ít để ý vào vết ố trên áo bạn hơn bạn nghĩ, nhưng lại để ý tổng thể về con người bạn nhiều hơn bạn tưởng.

 

Vấn đề của cả hai trường hợp là việc ta có chủ đích tập trung sự chú ý của chính mình về phía người khác. Bởi vì ta cứ bận tâm mãi đế vết ố cà phê (hay bất cứ sự không thoải mái nào ta đang nghĩ trên trang phục của mình), chúng ta cũng quy chụp người ta cũng phải để ý đến vết cà phê ấy. Nhưng khi ta chẳng thèm chú ý đến mình, chúng ta lại bỏ qua sự thật rằng mình tuy nhiên có thể lại chính là một vật đang thu hút sự quan tâm “đặc biệt” của mọi người. 

Tóm lại, chúng ta đặt quá nhiều chú ý vào những thứ ta để ý tới.

Ảo tưởng rằng mọi người cũng tập trung vào cùng một điều giống như ta chính là nguyên nhân gốc rễ của mọi sự hiểu lầm. Nhân viên vò đầu bứt tai trong khi giám đốc lại tin rằng các chỉ dẫn của họ rất đơn giản và dễ hiểu.Vợ chồng bất hòa khi cả hai đều cho rằng người kia phải lau nhà. Các nhà hoạt động xã hội lĩnh vực chăm sóc sức khỏe cho rằng xã hội đang thờ ơ chỉ vị mọi người không biết hệ thống bảo hiểm y tế độc quyền là gì.

Chúng ta đều có xu hướng gán quan điểm cá nhân vị kỷ của mình cho người khác. Điều đó không khiến chúng ta trở nên xấu xa hay ích kỷ. Nhưng hãy luôn nhớ trong đầu rằng sự chú ý của mỗi người soi rõ thế giới theo từng cách riêng, và giữa người với người, chúng ta không phải lúc nào cũng cùng chung một điều nhìn thấy.

2226.LÀM SAO ĐỂ ĐỌC NHỮNG CUỐN SÁCH KHÓ TRÊN TẦM CỦA BẠN VÀ TĂNG TRÍ THÔNG MINH




Trong một thời kỳ mà hầu như không ai đọc sách, bạn có thể dễ dàng nghĩ rằng chỉ cần cầm một cuốn sách lên đã là một cuộc cách mạng. Điều đó có thể đúng, nhưng chưa đủ. Đọc để dẫn đầu đồng nghĩa với việc tự thúc đẩy bản thân đọc những cuốn sách “trên tầm của bạn”

“Để làm được những điều vĩ đại, bạn phải đọc để dẫn đầu”
Đây là lời khuyên tuyệt vời nhất mà tôi từng nhận được về việc đọc tới từ một nhà sản xuất phim bí ẩn và cũng là một nhà quản lý tài năng, người đã bán được hơn 100 triệu album và kiếm về hơn 1 tỷ đô la Mỹ doanh thu phòng vé. Một ngày nọ, anh ấy nói với tôi rằng: “Ryan này, việc đọc nhiều là không đủ. Để làm nên những điều tuyệt vời, cậu phải đọc để dẫn đầu”.

Điều mà anh muốn nói là: trong một thời kỳ mà hầu như không ai đọc sách, bạn có thể dễ dàng nghĩ rằng chỉ cần cầm một cuốn sách lên đã là một cuộc cách mạng. Điều đó có thể đúng, nhưng chưa đủ. Đọc để dẫn đầu đồng nghĩa với việc tự thúc đẩy bản thân đọc những cuốn sách “trên tầm của bạn”.

Hẳn bạn đã biết những cuốn sách mà khi đọc bạn cảm thấy những từ ngữ như bị lẫn vào nhau và bạn không hiểu chuyện gì đang diễn ra chứ? Đó chính là những cuốn sách mà một nhà lãnh đạo cần phải đọc. Đọc để lãnh đạo hay để nghiên cứu đòi hỏi bạn phải đối xử với bộ não của mình như thể nó là cơ bắp: bắt nó “nâng” những vấn đề nặng kí với sự tập trung và quyết tâm cao độ.

Đối với tôi, điều đó có nghĩa là hãy dấn thân vào những chủ đề không quen thuộc với bạn và vật lộn với nó cho đến khi bạn hiểu ra được điều gì đó, tránh đi những cuốn “dễ đọc”. Điều đó đồng nghĩa với việc đọc Feynman thay vì Friedman, những cuốn tiểu sử thay vì sách kinh doanh, và những tác phẩm cổ điển thay vì đương đại.
  
Cách đọc này đã làm nên điều kì diệu cho tôi: ở tuổi 19, tôi là một nhà điều hành tại Hollywood, năm 21 tuổi tôi trở thành giám đốc marketing cho một công ty đại chúng, năm 24 tuổi tôi đã viết được 5 cuốn sách bán chạy nhất và kí được hợp đồng với nhà xuất bản lớn nhất thế giới. Tôi có thể đã là một kẻ bỏ ngang chương trình học nhưng tôi đã có được những người thầy tốt nhất thế giới: những cuốn sách khó.

Căn hộ của tôi có rất nhiều những cuốn sách mà nếu chỉ đọc lí thuyết sẽ rất khó để hiểu. Để hiểu chúng không phải là một chuyện dễ dàng, nhưng với những quy tắc dưới đây, tôi đã làm được. Những quy tắc này được áp dụng ngay khi bạn chuẩn bị đọc một cuốn sách mới.

📍 Trước khi mở trang đầu tiên… hãy vượt ra khỏi tư duy kiểu trường học
Cách mà bạn được học để đọc ở trường bị bóp méo bởi tầm quan trọng của những bài kiểm tra. Những bài kiểm tra thông thường ít khi chứng tỏ được rằng bạn hiểu hay bạn quan tâm tới tài liệu, mà thiên về việc chứng tỏ bạn đã dành thời gian để đọc chúng. Cách đơn giản nhất để kiểm tra là nhặt những điều tầm thường trong văn bản và hỏi bạn những câu kiểu như: “Hãy đặt tên cho đoạn văn” hay “Những nhân vật chính trong Chương 4 là ai?”. Dần dần việc đọc kiểu này hình thành nên một thói quen. Hãy nhớ rằng: bạn đọc cho chính bạn.

Giả sử bạn đang đọc cuốn “Lịch sử Chiến tranh Peloponnese”. Trong cuốn sách có một cuộc xung đột giữa Corinth và Corcyra không đáng nhớ cho lắm, mặc dù cuộc chiến này đã làm dấy lên xung đột giữa Athens và Sparta. (Để viết được những dòng này, tôi đã phải tự tra lại những cái tên, bởi tôi chỉ nhớ rằng chúng bắt đầu với chữ C)

Điều mà bạn nên nắm bắt được là khi hai bên chiến đấu để giành sự hỗ trợ từ Athen, một bên đã chọn cách nói “bây nợ ta một ân huệ”, bên còn lại ám chỉ những lợi ích mà việc giúp đỡ họ sẽ đem lại. Hãy đoán xem bên nào giành chiến thắng? Địa điểm, tên, ngày tháng, đều là những chi tiết không quan trọng. Những bài học mới là vấn đề.

Trích dẫn từ Seneca (một triết gia người La Mã): “Chúng ta không có thời gian rảnh rỗi để tìm hiểu rằng liệu anh ta [Ulysses] gặp phải cơn bão khi đi giữa Ý và Sicily hay ở một nơi nào đó ở thế giới ngoài kia - khi mà hàng ngày chúng ta phải đối mặt với những cơn bão của chính chúng ta, những cơn bão tinh thần, và bị những cám dỗ dẫn vào những rắc rối mà Ulysses chưa từng được biết.”

 Hãy quên hết tất cả mọi thứ, chỉ cần nhớ tới thông điệp ấy và cách để áp dụng nó vào cuộc sống của bạn.

📍 Đọc trước Phần kết
Khi bắt đầu đọc một cuốn sách, tôi gần như sẽ luôn tìm ngay tới Wikipedia (hoặc Amazon, hoặc một người bạn) và đọc trước Phần kết. Ai mà quan tâm chứ? Mục đích của bạn, với tư cách là một người đọc, là hiểu TẠI SAO điều gì đó xảy ra, còn phần CÁI GÌ chỉ là thứ yếu.
  
Bạn nên biết trước phần kết - hoặc tìm ra những khẳng định cơ bản của cuốn sách - vì nó sẽ giúp bạn tập trung vào hai nhiệm vụ quan trọng nhất:
1. Ý nghĩa của nó là gì?
2. Bạn có đồng ý hay không?

50 trang đầu tiên của cuốn sách không nên là một hành trình khám phá đối với bạn. Bạn không nên lãng phí thời gian của mình tìm hiểu xem tác giả đang muốn nói gì qua cuốn sách.

Thay vào đó, năng lượng của bạn cần phải được sử dụng vào việc tìm hiểu xem điều tác giả nói tới có đúng không và bạn được lợi gì từ đó. Thêm nữa, nếu bạn đã sẵn sàng biết chuyện gì sẽ xảy ra, bạn có thể nhận diện được những điềm báo và những manh mối ngay từ lần đọc đầu tiên.

📍 Đọc các đánh giá
Hãy tìm hiểu từ những người đã đọc cuốn sách ấy, những điều họ cảm nhận về cuốn sách là cực kì quan trọng. Cho dù là ở Amazon hay ở New York Times, hãy cứ đọc các bài đánh giá để có thể suy luận ra ý nghĩa văn hóa của tác phẩm và giá trị của cuốn sách đối với người khác. Việc biết trước những chủ đề chính sẽ khiến bạn mong chờ chúng xuất hiện và rồi thực sự trân trọng khi chúng được hé lộ.

📍 Đọc phần Mở đầu/ Giới thiệu/ Chú thích/ Phần trước
Việc đọc một cuốn sách tưởng như là 200 trang nhưng thực ra lại có 80 trang giới thiệu của người dịch thực sự khó chịu, nhưng việc đó lại quan trọng. Mỗi khi bỏ qua phần đó, tôi lại phải quay lại và bắt đầu từ đầu. Hãy đọc phần mở đầu, đọc toàn bộ những thứ dẫn vào quyển sách - thậm chí hãy đọc cả những chú thích của người biên soạn ở cuối các trang. Việc này thiết lập nền tảng và giúp bạn tăng cường kiến thức trước khi đi vào nội dung sách.

Hãy nhớ rằng: bạn cần mọi lợi thế có thể để đọc được một cuốn sách trên tầm của bạn. Đừng bỏ qua những thứ được thêm vào có chủ ý để tăng bối cảnh và màu sắc cho tác phẩm.  

📍 Tìm kiếm thông tin
Nếu bạn đang đọc để dẫn đầu, bạn sẽ gặp phải những khái niệm hoặc từ ngữ không quen thuộc. Đừng tỏ ra là bạn hiểu, hãy cứ tra cứu chúng. Tôi thích sử dụng Definr hoặc dùng điện thoại để tra cứu trên Wikipedia. Nếu đang đọc về Lịch sử Quân đội, một nền tảng hiểu biết về những cuộc chiến tranh thường cần thiết. Wikipedia là một nơi tuyệt vời cung cấp bản đồ và cho bạn thêm hiểu biết về các địa hình.

Đã có lần tôi cố gắng đọc một cuốn sách về Nội Chiến và bị bế tắc. Sau 10 tiếng xem phim tài liệu của Ken Burn, những cuốn sách đã trở nên dễ hiểu hơn rất nhiều (bạn thấy không, bạn hoàn toàn có thể tra cứu thông tin bằng cách xem TV). Tuy vậy, đừng bị sa lầy vào tên những thành phố hay cách đánh vần của những cái tên, cái mà bạn đang tìm kiếm là bức tranh toàn cảnh - những kết luận.

📍 Đánh dấu các đoạn
Tôi rất thích Post-It-Flags. Tôi đánh dấu từng đoạn gây hứng thú cho tôi, khiến tôi động não, suy nghĩ, và quan trọng với cuốn sách. Khi tôi không có vật gì để đánh dấu, tôi sẽ gấp góc dưới trang lại. (Thực ra tôi đã gấp góc dưới của mọi trang sách cuốn  Heraclitus’ Fragments). Nếu có điều gì cần phải tra cứu, tôi sẽ gấp góc trên của trang để quay trở lại đó sau. Tôi luôn mang một chiếc bút và viết ra bất cứ suy nghĩ/ cảm xúc/ mối liên hệ nào tôi cảm thấy với một đoạn văn.

Việc viết ra cảm nghĩ như thế nên được làm ngay lúc ấy, đừng nghĩ “sau này mình ghi cũng được” vì để một khoảng thời gian sau, bạn sẽ mất đi niềm hứng khởi. Đừng sợ rằng bạn sẽ làm hỏng cuốn sách với những đánh dấu và ký hiệu - sách rất rẻ. Thêm nữa, bạn sẽ nhận được nhiều hơn với khoản tiền bạn đã bỏ ra bằng cách này.

📍 Đọc lướt lại cuốn sách
Tôi có một quy trình giống nhau với mọi cuốn sách tôi đọc. Sau khi đọc xong một cuốn, tôi sẽ chờ 1-2 tuần rồi quay lại đọc lướt cuốn sách với một tập thẻ cỡ 4x6. Khi gặp những đoạn văn tôi thấy hữu ích, tôi sẽ chép tay đoạn văn ấy lên những tấm thẻ này.

Điều này có vẻ lạ lùng, nhưng nó là một chiến thuật cổ được sử dụng bởi tất cả mọi người, từ Tobias Worff, tới Montaigne, hay cả Raymond Chandler (người đã từng nói: “Khi phải dùng tất cả sức lực để viết ra những con chữ, bạn sẽ mong những con chữ ấy làm nên được điều gì đó giá trị”). Mỗi tấm thẻ này sẽ được sắp xếp theo chủ đề và lưu giữ lại trong hộp thẻ của tôi.

Kết quả của 4-5 năm làm việc này? Hàng ngàn thẻ trong cả tá những chủ đề - Tình yêu, Giáo dục, Những trò đùa, Suy nghĩ về Cái chết. Tôi quay lại với những mẩu tri thức này khi tôi viết, khi tôi cần sự giúp đỡ hay khi tôi cần giải quyết một vấn đề kinh doanh. Chúng đã trở thành một tài nguyên vô hạn.

📍 Ở mỗi một danh mục, hãy đọc một quyển sách
Có một quy tắc này tôi cố gắng để tuân theo. Trong mọi cuốn sách tôi đọc, tôi cố gắng tìm cuốn sách tiếp theo cho mình trong những chú thích cuối trang hoặc tài liệu tham khảo. Đây là cách bạn xây dựng kiến thức nền cho một chủ đề - cách mà bạn truy dấu một chủ đề tới tận căn nguyên gốc rễ.

📍 Áp dụng thực tế
Bạn đánh dấu một đoạn văn là có lý do. Tại sao phải chép lại một câu trích dẫn khi bạn sẽ không nhớ và sử dụng chúng chứ? Hãy dùng chúng trong các cuộc hội thoại; ám chỉ tới chúng trong các bài viết, trong email, trong thư từ và trong cuộc sống hàng ngày.

Còn cách nào khác mà bạn có thể thấm nhuần được chúng?

Nguồn trích dẫn của bạn càng giúp bạn nhiều trong cuộc sống, bạn càng thấy có động lực là làm đầy chúng lên. Bạn có thể thử thêm một dòng vào bài báo cáo bạn đang làm, tìm kiếm sự an ủi ở chúng trong những lúc khó khăn hoặc thêm chúng vào những trang Wikipedia. Hãy làm điều gì đó. Tôi sẽ dẫn lời của Seneca lần nữa: “Lời khuyên của tôi là thế này: những điều mà chúng ta nghe các triết gia nói và những điều chúng ta đọc từ những thứ họ viết nên được áp dụng trong hành trình tìm kiếm hạnh phúc của chúng ta. Chúng ta nên tìm đến những lời dạy hữu ích, những câu nói mạnh mẽ và cao thượng mà có khả năng áp dụng thực tế ngay tức khắc thay vì học từ những cách biểu đạt xa xôi, xưa cũ, những ẩn dụ bị phóng đại, những số liệu của các diễn văn. Và hãy thấm nhuần những lời dạy ấy để biến chúng thành kết quả cho bản thân mình.”

Hãy nhớ rằng: chúng ta đọc để tìm đến những bài học thực tế. Mục đích của chúng ta là cảm nhận những gì ta đã đọc và biến những từ ngữ ấy thành hiện thực.

Kết lại: Tất cả là tùy thuộc ở bạn

Dĩ nhiên, không có việc gì dễ dàng cả. Mọi người luôn hỏi tôi về những cuốn sách tôi mang theo người có phải sách cho trường học không bởi chúng chằng chịt những ghi chú, đánh dấu và những trang gấp. Vì sao một người lại vất vả vào một việc mà họ tự làm cho bản thân thôi? Đó là vì tôi yêu thích nó, bởi vì đó là điều duy nhất ngăn cách tôi với sự thiếu hiểu biết.

Đây là những kĩ thuật khiến tôi vượt xa hàng năm trời so với bạn bè đồng trang lứa. Nó là cách mà bạn có thể thực hiện một mình và xây dựng sức mạnh thay vì để một số người huấn luyện cá nhân nào đó quyết định điều bạn được và không được làm.

Việc này cũng khá tốn kém. Tôi đã mua hàng ngàn cuốn sách và đầu tư hàng giờ đồng hồ để học chúng. Nhưng lấy một tấm bằng MBA sẽ tốn kém cỡ nào? Hoặc tham dự TED? Tôi nghĩ sẽ sáng suốt hơn khi đầu tư vào những cuốn sách với giá trị vượt thời gian của 5,000 năm qua hơn là một hoặc hai buổi hội thảo, nếu bạn làm đúng cách và tự thúc đẩy bản thân.

Vậy nên hãy thử đi: Tự nghiên cứu, chăm chỉ đọc mà không bị sa lầy vào những tiểu tiết, và rồi thực hành để kết nối, áp dụng và biến chúng thành sự thật. Đó là công việc của bạn với tư cách là một nhà lãnh đạo. Bạn sẽ nhận ra rằng bạn có khả năng đọc những cuốn sách mà bạn tự gắn nhãn chúng là “trên tầm” và mọi người sẽ theo chân bạn. Nếu bạn chịu khó, những sự nỗ lực của bạn sẽ được đền đáp xứng đáng như Petrarch đã nói: “Những cuốn sách mang tới niềm hạnh phúc tới cốt tủy của một con người. Chúng tâm tình với ta, tư vấn cho ta và dự phần vào cuộc sống của ta bằng một sự thân mật sống động và mãnh liệt.”

Vậy nên, hãy thưởng thức hành trình của bạn!

Theo Medium
Mai Chiêu (biên dịch)

#Tramdoc #Trạm_đọc #Readstation
____________________________
📌 Đừng quên theo dõi Trạm Đọc tại các kênh sau nhé:
Shopee: http://ldp.to/Shopee_Tramdoc 
Youtube: http://ldp.to/youtube_tramdoc
Spotify: http://ldp.to/Spotify_Tramdoc
Tiktok: http://ldp.to/Tiktok_Tramdoc


Thứ Tư, 25 tháng 8, 2021

2225.Khương Công Phụ - người Việt duy nhất đỗ trạng nguyên, làm đến tể tướng nhà Đường của Trung Quốc.

 sưu tầm 


CÓ THỂ BẠN CHƯA BIẾT‼️


Khương Công Phụ - người Việt duy nhất đỗ trạng nguyên, làm đến tể tướng nhà Đường của Trung Quốc.

—————————————

Khương Công Phụ (731- 805) là một tể tướng người An Nam dưới triều Đường Đức Tông (742- 805). Theo "Đại Việt sử ký toàn thư", ông người làng Sơn Ổi, xã Cổ Hiển, huyện Quân Ninh, Ái châu, quận Cửu Chân nay là làng Tường Vân, xã Định Thành, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa. 


Theo gia phả của họ Khương ở Yên Định, Thanh Hóa, Khương Công Phụ và Khương Công Phục là con của Khương Công Đĩnh, cháu nội của Khương Thần Dực - Thứ sử vùng đất Ái Châu (tức Thanh Hóa ngày nay). 


Dưới thời nhà Đường, mỗi năm đất An Nam được chọn 8 người sang thi tiến sỹ và Khương Công Phụ và Khương Công Phục là 2 trong 8 người được chọn dự thi khoa tiến sỹ ở Trường An vào năm 758.


Tại kỳ thi ở Trường An, Khương Công Phụ đỗ đầu kỳ thi. Sau khi đỗ trạng nguyên, Khương Công Phụ được vua Đường phong chức "Hiệu thư lang"; còn người em là Khương Công Phục làm "Lang trung bộ Lễ". Khương Công Phụ đã có nhiều chính sách và công lao lớn cho nhà Đường, được vua Đường Đức Tông rất kính nể, rồi phong cho ông những chức vụ cao hơn.


Tháng 10 năm Kiến Trung thứ 4 (783), ông can gián vua trong vụ binh loạn Trường An của Chu Thử nên được thăng chức làm Tể tướng.


Năm 784, công chúa Đường An chết yểu, vua Đường hậu táng xây tháp trong khi binh loạn chưa dứt, Khương Công Phụ can gián nhà vua, nghe lời trái tai của Khương Công Phụ, Đường Đức Tông đã tức giận giáng làm "Tả thứ tử" nhưng mẹ mất ông được giải chức về chịu tang.


Năm Quý Dậu (793), Khương Công Phụ bị biếm chức rồi sai đi biệt giá ở Tuyền Châu. Mãi đến năm 805, sau khi vua Đường Đồng Thuận lên ngôi, nhận thấy lẽ phải trong lời can ngăn của Khương Công Phụ, liền xuống chiếu cử ông làm Thứ sử Cát Châu. Tuy nhiên vị lão thần tuổi già sức yếu đã qua đời trước khi đến nơi nhậm chức. Thời Đường Hiến Tông đã truy tặng ông chức "Lễ bộ Thượng thư".

2224.MỸ NHÂN CỨU ANH HÙNG: GIỮA ĐƯỜNG GI.ẾT HỔ, LẤY ĐƯỢC LANG QUÂN

 



Có lẽ từ thời Hai Bà Trưng, thì phải rất lâu sau đó mới xuất hiện một cặp vợ chồng mà cả hai đều là võ tướng nổi danh. Đó chính là cặp vợ chồng Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân.


* Cặp đôi trai tài gái sắc


Trần Quang Diệu là một trong "Tây Sơn thất hổ tướng". Ông vốn tên là Trần Văn Đạt, người Diên Phước, tỉnh Quảng Nam. Vốn giỏi võ từ nhỏ, lại thêm mến mộ danh tiếng Quang Trung nên ông đã gia nhập quân Tây Sơn.

Chẳng bao lâu, ông đã trở thành một vị mãnh tướng lập nhiều chiến công, rồi lần lượt giữ các chức: Đô đốc, Đại Đô đốc, Đại Tổng quản, Trấn thủ Nghệ An, Thiếu phó.

Khi Quang Trung mất, Quang Toản lên thay, Trần Quang Diệu cùng với Nguyễn Văn Huấn, Võ Văn Dũng, Nguyễn Văn Danh trở thành tứ trụ đại thần, cùng nhau gánh đỡ vương triều Tây Sơn bắt đầu suy yếu.


Bùi Thị Xuân là cháu vợ Quang Trung, từ nhỏ bà đã nổi tiếng thông minh, xinh đẹp, ham thích võ nghệ không kém gì con trai. Trước khi gia nhập quân Tây Sơn, bà đã tự phong là "Tây Sơn nữ tướng".


Sau này, bà hội kiến với Quang Trung, Quang Trung cũng công nhận bà xứng đáng với danh hiệu này và ban tặng thêm 4 chữ "Cân quắc anh hùng". Bà nổi tiếng với việc huấn luyện đội nữ binh và sử dụng voi chiến. Người đời phong bà là một trong "Tây Sơn ngũ phụng thư".


**Mối lương duyên nhờ con hổ


Bùi Thị Xuân là cô gái xinh đẹp, nhưng lại rất cá tính, không giống với hình tượng "thục nữ" của thời phong kiến. Vịnh về bà, cụ Nghè Trì có viết:


"Hoàng hôn thành dốc bi già động


Hữu nhân diện tỷ phù dung kiều".


Tuy rằng cũng có nhiều người dạm hỏi, nhưng Bùi Thị Xuân vẫn không vừa mắt, bà thường vặn hỏi người ta về văn, về võ, khiến kẻ đến thấy bí mà xấu hổ, phải từ bỏ ý định.


Vì vậy, hơn 20 tuổi mà người con gái này vẫn chưa có chồng, trong khi thời đó, con gái 17, 18 tuổi đều đã thành gia thất, thậm chí có con bồng con bế cả rồi. Khi cha mẹ tỏ ý lo ngại, thì Bùi Thị Xuân đã cười mà trả lời đầy khí phách rằng:


- Bà Trưng có chồng chứ Bà Triệu có chồng đâu, nào ai dám cười chê!


Một trong những sở thích của Bùi Thị Xuân chính là săn bắn. Một lần, khi bà đi săn thì thấy một chàng trai đang vật nhau với một con hổ. Người kia đã bị thương, đối phó với con hổ có phần khó khăn. Thấy vậy, Bùi Thị Xuân liền rút kiếm, xông tới chém chết thú dữ.


Trong lúc băng bó, bà mới biết người con trai đó tên là Trần Quang Diệu, đang trên đường gia nhập quân Tây Sơn. Trần Quang Diệu thì khôi ngô. Bùi Thị Xuân thì xinh đẹp. Hai người có thiện cảm với nhau ngay từ những giây phút đầu gặp gỡ.


Thế rồi khi cùng nhau kề vai chiến đấu dưới lá cờ Tây Sơn, tình cảm giữa hai người càng thêm tiến triển. Thấy vậy, đích thân anh em nhà Tây Sơn đứng ra mai mối, giúp cặp đôi trai tài gái sắc kết lương duyên.


***Kết thúc đáng buồn của cuộc đời hai vị võ tướng


Tuy rằng cuộc đời hai vợ chồng Bùi Thị Xuân đã có những tháng ngày oanh liệt gắn liền với Tây Sơn, nhưng rồi khi vua Quang Trung mất thì Tây Sơn cũng bắt đầu suy yếu, đến khi vương triều này sụp đổ, hai vợ chồng phải chịu một cái kết rất bi thảm.


Sử cũ chép rằng: Sau khi quân Tây Sơn bị đánh bại, Trần Quang Diệu cùng Võ Văn Dũng đem 3000 quân cùng 80 thớt voi, theo đường sạn dạo sang Lào để ra Nghệ An vào thượng tuần tháng 3 năm Nhâm Tuất (1802).


Đường đi khó khăn, Lam Sơn chướng khí đầy rẫy, khiến cho đoàn quân càng ngày càng hao hut, khi đến được Nghệ An thì đoàn quân mười phần giảm còn ba, bốn phần, tượng binh chỉ còn mươi thớt. Tại Hương Sơn, hai ông Diệu và Dũng đều bị tướng nhà Nguyễn là Võ Văn Doãn và Lê Đức Định bắt sống.


Ở Diễn Châu, Bùi Thị Xuân hay hung tin liền đem nữ binh đi giải cứu. Tuy rằng cứu được, nhưng rồi khi chạy đến Thanh Chương thì hai vợ chồng bị bắt trở lại. Sau đó, Võ Văn Dũng cũng bị bắt, ba người bị đóng cũi giải về Nghệ An.


Dọc đường, Võ Văn Dũng phá cũi thoát được, ông cũng giải cứu cho hai vợ chồng Trần, Bùi, nhưng hai chân của Trần Quang Diệu bị sưng phù, không thể chạy được. Bùi Thị Xuân quyết ở lại cùng chồng.


Cuối cùng, trong cuộc tr.ả th.ù của Nguyễn Ánh, Trần Quang Diệu đã bị ch.ém ch.ết. Bùi Thị Xuân cùng đứa con gái độc nhất 15 tuổi bị x.ử voi giày năm 1802.


Nguồn: Sưu tầm

Ảnh: Tranh minh họa Trần Quang Diệu - Bùi Thị Xuân.

Thứ Hai, 23 tháng 8, 2021

2223.TU LUYỆN THÁNG NGÀY

 Thay đổi vận mệnh từ khổ sang vui chỉ trong 4 bước theo lời các bậc cổ đức dạy


        Nghiệp tạo nên vận mệnh con người, hay nói cách khác, vận mệnh vốn dĩ được qui định sẵn bởi Nghiệp từ khi mới sinh ra, nhưng nếu quyết tâm, người ta vẫn có thể thay đổi được vận mệnh của mình.


        Trong cuộc sống hiện thực, chúng ta gặp rất nhiều trường hợp rõ ràng họ có học thức, tài năng và nhiều phương diện khác là ngang bằng hoặc thấp hơn mình. Nhưng có một số họ lại trở thành quan lớn, có sự nghiệp hiển vinh hay một đại phú ông nào đó, mà chúng ta lại chỉ là một nhân viên, một người bán hàng rong…suốt ngày chỉ long đong lật đật lo lắng miếng cơm manh áo. Chẳng lẽ, đây chính là vận mệnh, là số kiếp sao?


        Liệu có phải rằng vận mệnh của một người từ khi sinh ra đến lúc lìa đời đều là đã được định sẵn từ trước? Và từ đó về sau, trong cả cuộc đời là không có cách nào thay đổi được?


        Thực ra không phải vậy, vận mệnh con người phụ thuộc rất nhiều vào nghiệp họ gây ra. Nếu biết thay đổi, làm việc thiện nhiều, tu tâm dưỡng tính thì vận mệnh ắt sẽ tốt lên.


        Nếu một người trong lòng tràn ngập oán khí, tràn đầy những suy nghĩ độc ác thì sẽ khiến cho vận mệnh trở nên xấu, rất không tốt. Ngược lại, một người trong lòng hàm chứa thiện ý thì vô tình sẽ khiến vận mệnh của người đó chuyển biến tốt đẹp.


        Dưới đây là 4 bước các bậc cổ đức chỉ dạy  để thay đổi vận mệnh từ khổ sang sướng mỗi người cần nhớ.


        1. Hãy biết hoan hỷ chấp nhận những quả báo khổ đau đang nhận lấy và cố gắng vượt qua bằng những hành động tích cực, thực tế.


        2. Hãy sám hối những tội lỗi đã gây tạo trong đời này và những đời trước đồng thời ngăn bản thân tuyệt đối không được nghĩ, nói, hoặc làm việc ác. Nếu không thì nghiệp cũ còn chưa trả hết, mà nghiệp mới đã tạo thêm, sẽ không có ngày thoát khổ.

SƯU TẦM 


        3. Hãy thành tâm làm những việc thiện lành trong đời sống và để tích lũy phước và công đức, làm nguồn cội cho tròn vẹn hạnh phúc thế gian và xuất thế gian của ngày nay và mai sau.


        4. Hãy từng bước tu dưỡng tâm tánh bằng cách nghe lắng nghe các lời hay nhiều hơn và thực hành những lời dạy đó để tạo dựng an lạc thân tâm cho bản thân và mọi người xung quanh, cùng hướng tới bến bờ giác ngộ, an vui, giải thoát thật sự. Nếu bạn xa lìa ác tâm, nuôi dưỡng thiện tâm, tu dưỡng tâm tánh thì chư long thiên, hộ pháp chắc chắn sẽ tùy duyên âm thầm gia hộ, dẫn dắt cho bạn trên từng bước đường đời, đạo.


Namo Buddhaya


Thích Tánh Tuệ

2222.Kkkk

Sưu tầm
Chương trình phổ cập tiếng Sài Gòn cho các chú bộ đội đi chợ dùm bà con :
- Tần ô / cải cúc
- Ngò rí / rau mùi ta
- Ngò gai / rau mùi tàu
- Thơm / quả dứa
- Trái bom / quả táo 🍎
- Mãng cầu…na / quả na
- Bao tử / dạ dày lợn
- Dưa leo / dưa chuột 🥒
- Khổ qua / mướp đắng
- Bột ngọt / mì chính
- Bắp/ ngô
- Heo / lợn
- Đậu / đỗ
- Đậu phộng / lạc
- Bạc hà / giọc mùng
- Cá lóc / cá quả
- Khóm / dứa
- Bịch / túi
- Tẩy đá / cốc đá
- Mận / roi
- Củ sắn / củ đậu
- Mè / vừng
- Khoai môn / khoai sọ
- Tính tiền / thanh toán (không phải đánh nhau)
Nhờ Quý vị bổ sung thêm vô cho đầy đủ...


Chủ Nhật, 22 tháng 8, 2021

2221.ĐỪNG VỘI LẬP GIA ĐÌNH SỚM

 


Đừng lập gia đình sớm, dù bất cứ lý do nào. Đừng vội khi chưa sẵn sàng, chưa từng trải, chưa hiểu được, chung sống, là một thử thách to lớn thế nào.

Đừng lấy nhau chỉ vì… yêu nhau. Tình yêu, thật ngậm ngùi, chả giúp chúng ta có một hôn nhân hạnh phúc. Chỉ nên lấy nhau, vì thấy cần nhau, cả khi vui lẫn khi buồn, cảm thấy được thấu hiểu, cùng trình độ, cùng cách đối nhân xử thế, cùng nền tảng giáo dục, cảm thấy có thể sẻ chia mọi điều, chuyện trò thâu đêm suốt sáng không chán. Cảm thấy duy nhất người này, là đồng minh đồng loã là ruột thịt tim gan, không chỉ là đối tượng si mê quyến rũ. Đừng yêu vẻ bề ngoài, sự giàu có, vẻ trẻ trung, hãy hãnh diện vì lấy được người biết đối nhân xử thế, biết yêu thương và biết khiêm nhường.

Dù mờ mịt bởi yêu đương, cũng phải nhìn kỹ mà tránh xa, người ghen tuông, người sở hữu, người keo kiệt, người hiếu thắng, hung dữ, nóng nảy, thô lỗ, xúc phạm. Tuyệt đối không lại gần bọn lắm lời cay đắng, hay than thân trách phận, hay đổ lỗi cho người khác, bọn điên tình…

Cũng đừng nên lấy nhau chỉ vì quá… cô đơn, gật đầu chặc lưỡi chỉ vì sức ép của mọi người. Đừng sợ ế, đừng sợ một mình. Nỗi cay đắng của một cuộc hôn nhân bất hạnh huỷ hoại mình nhiều lần hơn.

Đừng nên lấy nhau vì muốn có con, và chung sống với nhau, chỉ vì con. Đừng căm ghét nhau đừng hận thù đến chết. Đừng tưởng một mình không nuôi dạy được con thành người. Đừng lấy cớ thương con mà đày đoạ mình, đày đoạ người suốt kiếp…

Đừng đọc và tin những bài báo nông cạn, đạo đức giả và cực kỳ ngu dốt khuyên ta lập gia đình, khuyên ta giữ chồng không bị cướp, khuyên ta không nên sống cô độc. Chả có lời khuyên nào về hôn nhân hạnh phúc, bí kíp thành công, chả ai có thể đoán trước mình sẽ may mắn hay bất hạnh, chúng ta đều phải tự học lấy bài học của bản thân… Điều quan trọng nhất, bản thân ta phải xứng đáng với một mối nhân duyên hạnh phúc. Một người xứng tầm.

Nếu ở cạnh nhau không thấy vui hơn, thấy đẹp hơn, thấy khoẻ khoắn hơn, thấy được yêu hơn, thấy ý nghĩa hơn, thấy tự do hơn thấy giầu có hơn nhất là bố mẹ ta không cảm thấy hạnh phúc hơn… thì chắc hôn nhân ấy, đã sai mất rồi…

ST

Thứ Bảy, 21 tháng 8, 2021

2220.RÀNH LUẬT HÃY KHỞI NGHIỆP

 RÀNH LUẬT HÃY KHỞI NGHIỆP



Nên nhớ rằng, dù mô hình doanh nghiệp của Mỹ và Trung Quốc tương đối giống nhau, từ doanh nghiệp cá nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, đến công ty hợp danh… nhưng ảnh hưởng pháp lý đến doanh nghiệp lại khá khác biệt. Thường thì doanh nghiệp Mỹ được pháp luật che chở khá kỹ, trong khi tại Trung Quốc, khi xảy ra rủi ro, thường người chủ phải chịu hết trách nhiệm. Ngay cả với mô hình công ty cổ phần, cơ quan chức năng ở Trung Quốc luôn quy trách nhiệm vào người nắm cổ phần lớn nhất để xử lý.


Cơ chế pháp lý trong kinh doanh giữa Mỹ và Trung Quốc cũng rất khác nhau, đặc biệt là giấy phép kinh doanh ở một số ngành. Trước đây, tôi cũng hay cố vấn cho cộng đồng gốc Việt gốc Trung Quốc làm ăn tại Mỹ. Nếu việc mở một tiệm ăn tại Trung Quốc rất dễ dàng, thì chuyện này tại Mỹ được coi là khó khăn số một. Để có được giấy phép kinh doanh, người chủ phải vượt qua hàng loạt cơ quan kiểm duyệt.


Đầu tiên, nhà hàng đó phải nằm trong vùng thương mại, nhà hàng thì liên quan đến cháy nổ và mỹ quan cộng đồng, nên phải thông qua Sở Cứu hỏa và Sở Xây dựng; an toàn thực phẩm vốn được coi trọng ở Mỹ nên Sở Vệ sinh y tế công cộng kiểm tra rất ngặt nghèo; tiếp đến là Sở Kế hoạch, Sở Cảnh sát sẽ xem xét quy mô chỗ đậu xe và trật tự giao thông. Ví dụ, một nhà hàng có 100 chỗ ngồi thì đòi hỏi ít nhất phải có 35 chỗ đậu xe cho khách. Sau cùng, Sở Môi trường sẽ xem hàng xóm xung quanh nhà hàng có ai phản đối không, rồi mới chấp thuận. Còn nếu nhà hàng xin phép bán rượu bia, vấn đề giấy phép lại càng phức tạp và do cơ quan kiểm soát rượu bia phụ trách.


Ngược lại, nếu tại Trung Quốc, việc thành lập một tờ báo tư nhân hay nhà xuất bản là điều cấm kỵ, thì tại Mỹ, việc xuất bản một tờ báo hay cuốn sách dễ ngang với việc… ra tiệm mua một món đồ. Thậm chí, nếu muốn, ai cũng được quyền làm báo ngay trong căn hộ của mình. Hiến pháp Mỹ quy định tự do ngôn luận, Chính phủ không được phép động đến quyền này nên giấy phép làm báo không cần phải có. Cũng rất công bằng, dù dễ dãi với thành lập báo, nhưng Chính phủ cũng bị cấm không được hỗ trợ nhân lực hay tài lực cho bất cứ một tờ báo nào.


Ở Mỹ, cơ quan SBA thuộc chính phủ Liên bang, có trách nhiệm giúp các doanh nghiệp nhỏ khởi nghiệp và phát triển. Ngoài việc bảo đảm nợ vay của tư nhân trước ngân hàng, chuyên gia của SBA còn giúp tư vấn về quản trị và mở các khóa đào tạo giúp doanh nhân. Có lẽ nhờ vậy, mỗi năm ở Mỹ có thêm hàng trăm ngàn doanh nghiệp mới. Ngày nay, ở Trung Quốc việc thành lập doanh nghiệp cũng khá dễ dàng trên khía cạnh pháp lý, ngoại trừ những ngành nghề bị ngăn cấm như truyền thông, viễn thông quốc phòng, dầu khí, khoáng sản…


Về thủ tục pháp lý, Chính phủ Trung ương của Trung Quốc không trực tiếp liên quan mà giao cho chính quyền địa phương cấp phép và quản lý. Trái lại, luật pháp của Mỹ thường nhiêu khê hơn vì Mỹ luôn có hai luật: luật tiểu bang và luật liên bang với thẩm quyền riêng.


Ví dụ, khi nhà đầu tư muốn bán cổ phần của công ty (initial public offering – IPO) thì phải thỏa mãn luật liên bang. Nhưng sau đó phải đăng ký ở từng tiểu bang thì các nhà môi giới trung gian địa phương mới giao dịch được. Trong 50 tiểu bang, có 34 tiểu bang sao chép mẫu quy định của liên bang và 16 tiểu bang khác có mẫu riêng.


Hầu hết các công việc liên quan đến luật lệ đều được giao cho luật sư giải quyết để tránh lỗi lầm. Với IPO, vì mỗi nơi có luật lệ khác nhau mà lại thuê riêng một luật sư cho mỗi tiểu bang thì quá tốn kém, do đó, để tiết kiệm, phần lớn doanh nghiệp chỉ đăng ký bán cổ phiếu ở những tiểu bang có chung quy định với luật liên bang.


Dù vậy, vẫn có những trường hợp phát sinh gây rắc rối. Ví dụ, dù doanh nghiệp có trụ sở đặt tại tiểu bang này, nhưng hàng hóa hay chuyện làm ăn của chủ doanh nghiệp xảy ra ở một tiểu bang khác và bị kiện ở đó thì người chủ phải thuê luật sư ở chính bang khởi kiện đứng ra làm đại diện. Luật sư của một tiểu bang này không được phép hành nghề ở một tiểu bang khác, trừ khi đã đăng ký và có bằng luật sư ở đây. Do đó, ngoài việc phải tốn tiền thuê hai luật sư khác nhau, việc phối hợp các hoạt động trong quy trình thưa kiện sẽ làm mất rất nhiều thời gian.


Công ty Hartcourt của tôi – có trụ sở pháp lý chính tại California – từng tiến hành một vụ mua bán công ty ở Florida. Sau khi bị người trung gian mua bán cổ phiếu công ty kiện ra tòa án ở Florida về tiền hoa hồng, tôi phải giao toàn bộ vụ kiện cho một luật sư ở Florida.


Trước đó, luật sư riêng của tôi ở California phụ trách vụ kiện, có xin tòa dời vụ kiện qua California vì lý giải rằng việc giao: giữa đôi bên diễn ra tại California. Nhưng tòa Florida bác đề xuất với lập luận đối tác bán hàng cho tôi sống ở Florida nên phải xử ở tòa án Florida. Chấp nhận chuyển vụ kiện ra khỏi California, tôi đã phải sao chép lại toàn bộ tài liệu và cứ mỗi lần cung cấp thêm tài liệu nghiên cứu cho cả hai luật sư, thì tôi lại phải tốn tiền gấp đôi.


Chưa hết, vào ngày hầu tòa, luật sư Florida của tôi không tới vì… quên, nên tòa án xử tôi thua kiện. Khi nhận án lệnh tôi bị sốc và lại phải tiếp tục thuê một luật sư khác. Trị giá của vụ mua bán công ty này là 2,2 triệu đô la và tôi phải bỏ ra 2,2 triệu đô la vào quỹ tòa án để có quyền kháng cáo. Trước tiên tôi phải kiện vị luật sư đầu tiên đã không làm tốt trách nhiệm. Tất cả quá trình kiện tụng đã làm tôi mất gần hai năm trời và sau kháng cáo, tôi đã thắng kiện tòa án cao hơn. Rồi phải mất một năm sau, tôi mới được nhận lại số tiền 2,2 triệu đô la đã ký quỹ. Nực cười hơn, toàn bộ chi phí cho vụ kiện này là 1 triệu đô la.


Trích từ sách 42 năm làm ăn tại Mỹ và Trung Quốc (thuộc Bộ di sản Alan Phan) 


🎯 Nếu muốn tìm hiểu thêm những quyển sách chứa đựng tinh thần và triết lý Alan Phan, bạn có thể tham khảo tủ sách Alan Phan tại đường link này: http://bit.ly/tu-sach-di-san-alan-phan-tiki

🐲KINGLONG WONMAN ĐĂNG - CAO TỔ CỦA NHỮNG VỊ VUA

  2019 thuê nhạc sĩ  phổ nhạc bài này làm hiệu doanh nghiệp, làm nhạc chờ công ty, giờ có rồi, nên lưu lại ở đây làm kỹ niệm  ĐĂNG CHO VAY -...