CHUYỂN ĐỔI NGÔN NGỮ BLOG

Thứ Năm, 16 tháng 9, 2021

2265.THỦY CHIẾN Ở THẾ GIỚI CỔ ĐẠI

 sưu tầm 


Người Hy Lạp cổ đại sống trong một thế giới rộng lớn được kết nối với nhau bằng thương mại và giao thông đường thủy. Điều kiện địa hình đồi núi chật hẹp với những đồng bằng ven biển và/hoặc bị cô lập bởi núi non hay những hải đảo xa xôi đã thúc đẩy mạnh mẽ giao thương và giao thông đường thủy trong thế giới cổ Hy Lạp. Để bảo vệ quyền lợi của mình tại những vùng lãnh thổ xa xôi (các thuộc địa) cũng như bảo vệ các tuyến giao thương khỏi cướp biển, các thành bang Hy Lạp hùng cường (ngoại trừ Sparta) đều phát triển hạm đội hải quân hùng mạnh. Sức mạnh của hải quân chính là nền tảng để thành bang Athens phát triển thế lực của mình ra khắp thế giới. Corinth, thành bang hùng cường thứ ba trong thế giới Hy Lạp cổ đại cũng đã sử dụng đường biển để phát triển các thuộc địa của mình. Syracuse, thành bang Hy Lạp nổi tiếng trên đảo Sicily (Ý ngày nay) là một thuộc địa cũ của thành Corinth. 


Do điều kiện công nghệ thô sơ của thời kỳ này, chiến tranh đường thủy chủ yếu diễn ra ở gần bờ và dựa vào sức gió cùng mái chèo làm sung lực chính. Lao phóng, cung tên, và cận chiến là những vũ khí chủ lực của tàu chiến thời kỳ này. Người Hy Lạp, với tư duy chiến đấu cận chiến bằng bộ binh nặng (Hoplite) của mình đã phát triển lên các tàu Trireme với thiết kế đặc trưng phù hợp cho việc đâm húc tàu chiến đối phương và cận chiến. Sử dụng 80 - 120 tay chèo (nô lệ) và mang theo 50 lính chiến đấu và sỹ quan*, các tàu Trireme có thể dựa vào sức chèo để di chuyển nhanh chóng qua những khu vực nước nông của biển Địa Trung Hải. Các thuyền Trireme được thiết kế với một mũi nhọn được đặt ngầm bên dưới mũi thuyền, được thiết kế để đâm nát vỏ thuyền của đối thủ. Một cú đâm từ khoảng cách chuẩn với lực đẩy của mái chèo có thể xé nát thuyền chiến kẻ thù làm hai. Một cú đâm yếu hơn có thể làm hư hại con tàu. Nếu bị đâm vào bánh lái từ đằng sau, thuyền chiến đối phương có thể bị vô hiệu hóa (ất khả năng di chuyển). Các tàu Trireme có thể cập sát vào tàu chiến đối phương trong thủy chiến. Lúc này, lực lượng sĩ quan và binh lính hạng nặng trên các thuyền sẽ nhảy lên cận chiến đánh phá thuyền đối phương. 


Điều kiện chiến đấu phức tạp của thủy chiến thời kỳ này khiến các trận thủy chiến thường diễn ra rất đẫm máu và hỗn loạn. Trận thủy chiến Salamis xảy ra vào tháng 9 năm 480 trước công nguyên trong cuộc xâm lược Hy Lạp lần một của Ba Tư là trận thủy chiến đã cứu Hy Lạp khỏi cuộc xâm lược và là một trong những trận đánh có ảnh hưởng lớn nhất lên lịch sử Hy Lạp cổ đại. 


Cras.

2264.LÂU ĐÀI SƠ KHỞI

 sưu tầm 

Tranh: một lâu đài gỗ nhỏ được xây dựng để kiểm soát vùng đất xung quanh. Đây là hình mẫu căn bản và dễ xây dựng nhất của lâu đài châu Âu trong thế kỷ thứ 8 và giai đoạn Trung Cổ. 


Để phục vụ nhu cầu hành chính, quân sự và nhà nước trong giai đoạn đầu tiên, giới quý tộc châu Âu thường cho xây dựng các lâu đài tại các khu vực địa lý có giá trị chiến lược cao. Lâu đài thường đặt tại những vị trí trung tâm mà từ đó có thể dễ dàng kiểm soát vùng đất xung quanh và kết nối với trục đường chính dẫn đến các trung tâm hành chính - quân sự khác. Lâu đài thường được xây dựng chắc chắn với các khối đá lớn và các khu vực phục vụ nhiều mục đích khác nhau của lãnh địa. Bất chấp lý thuyết này, trên thực tế, không nhiều lãnh chúa có đủ tiềm lực xây dựng lâu đài và thậm chí số người có thể xây dựng các lâu đài đá lớn còn ít hơn. Do chi phí xây dựng - thiết kế lâu đài là rất lớn, đặc biệt là chi phí cho kiến trúc sư và đá xây dựng, các lãnh chúa nhỏ thường bảo vệ mình bằng hệ thống hào luỹ gỗ và hào phòng thủ trong khi các lãnh chúa có tiềm lực hơn thường bắt đầu bằng các lâu đài gỗ. Do gỗ là nguồn nguyên liệu xây dựng rẻ và dễ kiếm nhất trong thời kỳ này, đồng thời xây dựng lâu đài gỗ cũng yêu cầu ít nhân công và chuyên môn kỹ thuật thấp hơn, phần lớn các lãnh chúa thường chọn xây dựng lâu đài bằng gỗ trước khi mở rộng và nâng cấp cấu trúc bằng đá. Như vậy, một cách dễ hiểu, các lâu đài bằng gỗ là các lâu đài chiếm số lượng lớn nhất trong thời kỳ tiền Trung Cổ của châu Âu. 


Khác với lâu đài bằng đá, vốn yêu cầu thời gian xây dựng lâu và lực lượng nhân công lớn, các lâu đài bằng gỗ có thể được xây dựng và hoàn thành trong thời gian sớm với một lực lượng nhân công vừa phải. Các công đoạn chế biến gỗ cho việc xây dựng cũng cho phép sử dụng các thiết bị xây dựng căn bản dễ kiếm trong đời sống hàng ngày. Phần móng cần thiết cho tường gỗ cũng nông và đơn giản hơn hẳn so với lâu đài đá. So với việc xây dựng phức tạp của tường đá, tường gỗ chỉ yêu cầu các khối gỗ được đẽo gọt đúng kích thước và xếp dính vào nhau theo phần móng nông. Nó dễ xây dựng hơn hẳn và cung cấp sự bảo đảm an ninh căn bản nhất cho toà thành. Do khả năng phòng vệ hạn chế của tường gỗ, người ta thường đắp các ụ đất cao làm nền cho lâu đài, điều này cho phép nâng chiều cao của lâu đài so với xung quanh, tạo hiệu quả tốt hơn trong việc phòng thủ. Một hệ thống hào nước hay hào phòng vệ cũng thường được đào xung quanh để tạo thêm khó khăn cho kẻ tấn công. Do sự đơn giản của việc xây dựng bằng gỗ, các lãnh chúa thường có thể tự chỉ huy và việc xây dựng chỉ yêu cầu đội thợ có năng lực thay vì yêu cầu tổng công trình sư hay các chuyên môn phức tạp khác của lâu đài đá. Đây là một nguyên nhân quan trọng khác dẫn đến sự phổ biển của lâu đài gỗ trong nhiều thế kỷ tại Châu Âu. 


Lâu đài bằng gỗ trong tranh là ví dụ điển hình của một lâu đài gỗ sơ khai. Một toà tháp lớn - pháo đài chính (keep) bằng gỗ với nhiều tầng được đặt trên gò cao nhất. Một lớp tường gỗ nhỏ bao xung quanh pháo đài chính giúp tăng cường an ninh. Để tạo khó khăn lớn nhất cho kẻ tấn công, một cây cầu nhỏ đủ để đi bộ được bắc chạy qua lớp tường gỗ nhỏ bao quanh pháo đài chính nối với khoảng sân chính của lâu đài. Trong trường hợp đối phương đã tràn được qua lớp tường ngoài, câu cầu gỗ nhỏ sẽ là trở ngại cuối cùng cho chúng trước khi vào được pháo đài. Một lớp tường gỗ bao quanh sân chính với hào nước đệm bên ngoài là hàng phòng thủ căn bản. Bên trong khoảng sân, một nhà nguyện được sử dụng chủ yếu cho gia đình lãnh chúa được xây dựng. Một số căn nhà nhỏ cho binh lính và gia nô cũng được xây dựng ở đây. Các căn nhà thường được xây nằm sát và dựa vào lớp tường phòng thủ. Một con đường duy nhất được xây cho phép liên thông giữa pháo đài và bên ngoài. Để kiểm soát và tăng cường khả năng phòng thủ con đường này, một tháp canh lớn được xây dựng và một lớp cửa an ninh chắc chắn được sử dụng. Lớp cửa này có thể được làm bằng gỗ hoặc bằng thép, tuỳ theo khả năng tài chính của lãnh chúa. Tháp canh cũng cho phép lính canh phát hiện người từ xa và bắn tên, ném đá xuống kẻ tấn công khi cần. 


Cras.

2263.THUỶ CHIẾN Ở TRUNG HOA XƯA

 Sưu tầm 


Tranh: hạm đội Hán triều bị tập kích bởi hỏa thuyền của quân nổi loạn trên sông. Thuyền trung tâm ở chính giữa đóng vai trò chỉ huy là một phần tất yếu của thủy trại xa xưa. 


Đại Tần, triều đại khởi lập ra Trung Hoa thống nhất là triều đại quân sự trực trị đầu tiên trong lịch sử Trung Nguyên. Sức mạnh quân sự của nhà Tần, với nền tảng đến từ lực lượng lục quân* hùng mạnh là căn bản cho học thuyết quân sự của các triều đại sau đấy. Khởi nghiệp từ vùng phía Tây - Tây Bắc Trung Nguyên, giáp ranh với các sắc dân du mục phương Bắc hiếu chiến, nhà Tần đã xây dựng nên một quân đội thiện chiến với lực lượng bộ binh - cung thủ tinh nhuệ và lực lượng kỵ binh giáp sắt có sức mạnh vô địch. Tuy vậy, khi lãnh thổ đại Tần dần mở rộng về phía Nam và vượt quá giới hạn của đồng bằng Trung Nguyên, với ranh giới lãnh thổ vượt qua bờ Nam sông Trường Giang, thủy chiến nhanh chóng trở thành một phần quan trọng của chiến tranh. Sự phát triển dân số mạnh mẽ nhờ các đồng bằng phì nhiêu phía Nam cùng sự hình thành của các vương quốc mới theo định chế của Trung Nguyên chỉ càng làm thủy chiến trở nên quan trọng hơn. Kể từ thời nhà Hán trở đi, sức mạnh đường thủy đã thành một phần bắt buộc của chiến tranh. 


Do đặc điểm địa lý tự nhiên của Trung Hoa, phần lớn các trận thủy chiến lớn đều xảy ra ở phía Nam Trung Hoa. Trong tư duy của người Trung Hoa xa xưa, người miền Bắc là sắc dân dũng võ giỏi cưỡi ngựa, chuyên nghề chiến chinh - buôn bán, trong khi các sắc dân phía Nam lại thiên về nghề nông - nghề thủy, giỏi nghề đi thuyền, không chuyên việc cưỡi ngựa - bắn cung. Đặc điểm tự nhiên của sông Trường Giang với lòng sông lớn, các vùng nước chảy siết quanh co, mực nước sâu với nhiều vùng nước hiểm đã tạo nên địa hình hoàn hảo cho chiến tranh đường thủy phát triển. 


Với tư duy chiến tranh tập đoàn theo khuôn mẫu của Đại Tần, nhà Hán và các triều đại sau đấy đã thiết lập nên một lực lựng thủy quân với tổ chức và biên chế vững chắc. Hệ thống hành chính trung ương tập quyền vững mạnh và sức mạnh kinh tế hùng hậu của Trung Nguyên và các vùng đất phía Nam đã cho phép triều đình trung ương có đủ tiềm lực để xây dựng thủy binh. Các sắc dân Hán định cư tại bờ Bắc và bờ Nam sông Trường Giang cũng như các sắc dân phi Hán tộc quen nghề sông nước chịu sự quản lý của triều đình trung ương và định chế của người Hán đã mang đến nguồn tân binh chất lượng và dồi dào cho thủy binh Trung Hoa. Các loại tàu chiến đầu tiên hẳn đã có xuất xứ từ tàu buôn và các loại tàu dân sự khác được thường dân sử dụng. Các triều đại ở các giai đoạn lịch sử khác nhau của Trung Hoa đã ghi nhận những mẫu chiến thuyền khác nhau được sử dụng. Dọc theo các vùng sông nước, các mẫu thuyền khác nhau cũng đã được ghi nhận. Việc chúng đã được sử dụng đến mức độ nào và đã có ảnh hưởng đến việc thiết kế chiến thuyền của Trung Hoa ra sao là một chủ đề rất rộng lớn và không thể được đề cập đủ trong giới hạn của bài viết. Các sắc dân Trung Hoa sống tại khu vực ven biển phía Nam, đặc biệt là tại vùng Lưỡng Quảng, Phúc Kiến, và Nam Hải xa xôi của Trung Hoa lại có những mẫu thiết kế thuyền và kỹ thuật đi biển của riêng mình, vốn có nhiều điểm khác biệt với thủy chiến trên sông Trường Giang.


Tuy vậy, những mẫu thuyền chiến của Trung Hoa xa xưa có thể được tập hợp lại qua những yêu cầu chung cho chúng. Thứ nhất là về nhiệm vụ thiết kế, các mẫu thuyền được thiết kế cho các nhiệm vụ khác nhau mang ảnh hưởng trực tiếp lên thiết kế của chiến thuyền. Đây cũng chính là đặc điểm thứ hai: kích cỡ của thuyền và số lượng người - binh khí chúng có thể mang theo. Hai đặc điểm trên là những đặc điểm cốt lõi ảnh hưởng trực tiếp lên chiến thuyền và thủy chiến đương thời. Theo các ghi chép trong các điển tự đời Hán, thời Tam Quốc, giai đoạn phân tranh và các ghi chép trong lịch sử chiến tranh Trung Hoa xa xưa, các mẫu chiến thuyền nhỏ mang 20 - 50 người (với các mẫu mang theo 20 người, 30 người và 50 người) cùng các chiến thuyền lớn có khả năng mang theo 100 - 200 người là nền tảng chiến đấu của thủy binh Trung Hoa. Để tăng hải trình và năng lực chuyên chở, các mẫu lâu thuyền với vọng lâu và kích cỡ lớn có thể mang từ 400 - 600 người trở lên cùng lương thực, binh khí dự trữ đã dần được phát triển. Trong thủy chiến xa xưa, lâu thuyền được đặt ở trung tâm của đội hình thủy binh, đóng vai trò chỉ huy, tận dụng kích cỡ của mình để áp chế các đội thuyền nhỏ đồng thời tận dụng vọng lâu để bắn chế áp thuyền địch bằng tên và hỏa khí. Do dự trữ hải trình (lương thực, thuốc men, nước uống và binh khí dự trữ) của các chiến thuyền nhỏ không lớn, lâu thuyền cũng mang ý nghĩa quan trọng chiến lược về tiếp vận trong chiến tranh đường thủy xa xưa. 


Các chỉ huy thủy binh Trung Hoa xưa đã áp dụng tư duy chiến tranh tập đoàn vào việc xây dựng thủy binh hiệu quả. Các loại chiến thuyền với kích cỡ và công dụng khác nhau tạo thành các lớp và các đội hình thủy chiến vững chắc với lâu thuyền ở trung tâm là chiến lược căn bản trong thủy chiến xa xưa. Thủy trại (thường đặt tại trung quân), được thiết lập để làm đại bản doanh cho thủy binh xa xưa (một khái niệm gần gũi với đại bản doanh trên bộ), được thiết lập từ các chiến thuyền trong hạm đội sẽ là gốc của các chiến lược chiến tranh đường thủy cổ đại trứ danh còn được lưu truyền tới ngày nay. 


*Lục quân: vốn có nghĩa là sáu quân, theo phép phong kiến cũ chỉ dành để gọi quân của Thiên Tử. Chữ lục ở đây cũng có thể để chỉ cây cối - rừng núi trong tiếng Hán xưa. 


Cras.

🐲KINGLONG WONMAN ĐĂNG - CAO TỔ CỦA NHỮNG VỊ VUA

  2019 thuê nhạc sĩ  phổ nhạc bài này làm hiệu doanh nghiệp, làm nhạc chờ công ty, giờ có rồi, nên lưu lại ở đây làm kỹ niệm  ĐĂNG CHO VAY -...