CHUYỂN ĐỔI NGÔN NGỮ BLOG

Thứ Sáu, 6 tháng 8, 2021

2186.NHỮNG ĐIỀU THÚ VỊ VÀ LẠ Ở NƯỚC ÚC

 GIA CÁT LUẬT 0921888868 sưu tầm 


1.Cừu, chuột nhiều hơn người


Theo thống kê, ở Australia có khoảng 60 triệu chuột túi và 75,5 triệu con cừu trong khi dân số chỉ gần 23 triệu dân. Sở dĩ như vậy vì nước Úc có đến 2 phần 3 diện tích là hoang mạc, đây là địa điểm cư trú thích hợp của những động vật hoang dã. Trong khi dân số nước này chỉ sống tập trung ở một số thành phố lớn. Còn rất nhiều diện tích đất ở Úc chưa có cư dân sinh sống.


2.Người Úc ăn kangaroo - Quốc huy của họ!


Không có quốc gia nào trên thế giới ăn Quốc huy của họ! Tuy nhiên, không phải tất cả người Úc đều ăn kangaroo - một nửa trong số họ chưa bao giờ thử món này và nhiều người không đồng ý với việc ăn con vật trên Quốc huy của họ nên từ chối ăn nó vì lòng tôn trọng và lòng yêu nước.


Nhưng rất nhiều người trong số họ đã ăn nó. Kangaroo là một loại thịt chính của thổ dân Úc bản địa trước khi đến định cư ở châu Âu. Ngày nay nó không được xem như một loại thịt thông thường để ăn, nhưng nó có bán tại các siêu thị và nhiều nhà hàng phục vụ nó như một món ăn cho người sành ăn. Nhiều khách du lịch sẽ thử nó khi họ ở đây vì nó được xem là kỳ lạ. Chuột túi là một loại thịt nạc lành mạnh với tỷ lệ mỡ thấp, và Úc xuất khẩu thịt kangaroo sang một số quốc gia.


3.Dingo Fence – Hàng rào dài nhất thế giới


Hàng rào Dingo còn được người dân địa phương gọi là “hàng rào chó”. Nó được xây dựng từ năm 1880, hoàn thành vào năm 1885 với chiều dài 5641 km là hàng rào dài nhất thế giới. Mục đích xây dựng hàng rào để ngăn chặn những đàn chó hoang Dingo phá hoại mùa màng và bắt những chú cừu ở phía nam Queensland. Hàng rào này đã phát huy được tác dụng trong hàng thập kỉ qua, tuy rằng đôi lúc người ta vẫn bắt gặp vài chú chó Dingo ở phía nam.


4.Tắm biển ban ngày từng bị coi là vi phạm pháp luật ở Úc


Thật là kì quặc khi ở đất nước mà bạn phải mất đến 27 năm mới đi hết các bãi biển nhưng hoạt động tắm biển ban ngày lại từng bị cấm. Từ năm 1828 – 1902, nếu bạn tắm biển ban ngày tức là bạn đã phạm pháp. Phải mất rất nhiều thời gian hoạt động đấu tranh của những vận động viên bơi lội mới được ghi nhận và việc tắm biển trở nên hợp pháp.


5.Đảng Tình dục (Sex Party)


Điều thú vị về Australia là quốc gia này có một đảng có tên rất “độc” đó là đảng Tình dục. Đảng Tình dục (Sex Party) ở Úc theo đuổi việc tìm cách hợp pháp hóa cần sa, hợp pháp hóa “cái chết nhẹ nhàng” cho những người mắc bệnh nan y và muốn bãi bỏ luật chống khiêu dâm, phá thai, thu thuế nhà thờ…


6.Lạc đà hoang dã còn nguy hiểm hơn cả tội phạm


Lực lượng nguy hiểm và đông đảo nhất trong khu vực lãnh thổ bên trong của Úc chính là lũ lạc đà hoang dã. Bọn này vô kỷ luật và đầu gấu đến nỗi chính phủ Úc phải đưa ra một chương trình trị giá 19 triệu USD ( khoảng hơn 430 tỷ đồng) để đưa lũ động vật có bướu này vào khuôn khổ. Và cũng nhờ đám "tài nguyên" dồi dào này, Úc đã trở thành "bạn hàng thân thiết" của Ả Rập Saudi, liên tục xuất khẩu lạc đà lấy thịt cho ông lớn dầu mỏ.


7. Opera Sydney – Biểu tượng của nước Úc


Nhà hát Opera là một điểm du lịch chính tại Úc và cũng là một trong những toà nhà đẹp nhất thế kỷ. Nhà hát hoàn thành năm 1960 với chất lượng âm thanh tuyệt vời. Nó có khoảng 1000 phòng và có thể chứa tổng cộng tất cả 5000 người cùng lúc. Mái của nhà hát này nặng tới hơn 161.000 tấn. Xứng đáng là kỳ quan của vương quốc Kangaroo.


8. Bợm nhậu


Dân Úc nổi tiếng là "bợm nhậu" trên thế giới, mỗi người dân ở đây trung bình uống khoảng 96 lít bia mỗi năm. Đây cũng là một phần lý do mà 63% dân số Úc bị thừa cân.


Nguồn tham khảo 

2185.KỴ BINH TRONG CHIẾN TRANH HIỆN ĐẠI.

GIA CÁT LUẬT 0921888868 sưu tầm 


Trong lịch sử chiến tranh, kỵ binh là một trong những binh chủng có thời gian phục vụ lâu đời nhất. Trong giai đoạn đầu đến giữa chiến tranh Trung Cổ, kỵ binh đã đóng vai trò chủ lực trong quân đội. 
Kể từ cuối giai đoạn Trung Cổ cho đến giai đoạn cận đại, kỵ binh đã chuyển sang đảm nhận nhiệm vụ xung kích, đột phá đội hình - trận tuyến đối phương bên cạnh nhiệm vụ trinh sát. Khi công nghệ thông tin còn chưa phát triển, kỵ binh chính là tai mắt của một đội quân.

Khi thế kỷ 20 bắt đầu, kỵ binh vẫn còn vai trò rất quan trọng trong chiến tranh. Bên cạnh vai trò truyền thống như trước kia, nhiệm vụ hậu cần và liên lạc cũng là một nhiệm vụ quan trọng của các đơn vị kỵ binh. Do sự phát triển của chiến tranh hiện đại, các lực lượng kỵ binh thực hiện nhiệm vụ chiến đấu đã dần mất chỗ đứng.

Tuy vậy, kỵ binh vẫn là một lực lượng quân sự hữu dụng cho đến những năm 60 của thế kỷ 20. 

Trong đại chiến thế giới thứ 2, trái với hình ảnh cơ giới hoá toàn diện của quân đội Đức trong văn hoá đại chúng, 80% việc vận chuyển hậu cần của quân đội Đức được thực hiện bởi ngựa trong giai đoạn 1939-1942. Cùng lúc đó Ba Lan, Liên Xô và các nước Đông Âu cũng tiến hành phát triển các đơn vị kỵ binh chủ lực của mình. 

Lý do cho việc này khá rõ ràng. Việc cơ giới hoá tốn một chi phí lớn và không thể được thực hiện toàn diện. Việc cung cấp hậu cần và bảo đảm khả năng hoạt động của các đơn vị kỵ binh tốn chi phí thấp và cũng đơn giản hơn các đơn vị cơ giới.

Bên cạnh đó, địa hình châu Âu với các khu vực rừng và đồi núi tại Tây Âu, đặc biệt là khu vực biên giới Bỉ - Đức - Pháp khiến việc sử dụng kỵ binh cho nhiệm vụ trinh sát và liên lạc hiệu quả hơn việc sử dụng phương tiện cơ giới. Tại khu vực Đông Âu, đồng bằng mênh mông với dân cư thưa thớt đã khiến việc sử dụng ngựa cho mục đích quân sự trở nên quan trọng. Ở thời điểm các phương tiện cơ giới quân sự vẫn còn bị hạn chế về kỹ thuật và vấn đề tiếp vận khá phức tạp, kỵ binh đã trở thành một giải pháp đơn giản và thực tế. 

Các đơn vị kỵ binh có thể tìm kiếm nguồn tiếp tế ngay tại khu vực hành quân. Bên cạnh đó, ngựa cũng có khả năng vượt các khu vực địa hình chia cắt (đặc biệt là địa hình rừng rậm, gập ghềnh và các khu vực bùn lầy). Những đặc tính này khiến kỵ binh trở nên cần thiết trong suốt giai đoạn thế chiến thứ II, đặc biệt là tại mặt trận phía Đông. 

Một số quốc gia sau khá nổi bật về sử dụng kỵ binh trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ 20:

I) Quân đội Đức:

Trong giai đoạn thế chiến thứ I, kỵ binh Đức là con cưng của Kaiser Wilhelm II. Lực lượng kỵ binh Dragoons là một phần trọng yếu trong quân đội Đức. 

Các đơn vị kỵ binh có trang bị căn bản là súng Carbine kỵ binh, trường thương và kiếm cong kỵ binh (cavalry sabre ). Chúng được phối thuộc rất chắc chắn với các lực lượng bộ binh chủ lực và các đơn vị pháo binh. 

Nhiệm vụ căn bản của lực lượng này là trinh sát, tấn công phủ đầu, chống lại kỵ binh đối phương và chiến đấu phối thuộc với các binh chủng khác. Những chiến thuật này có nhiều điểm tương đồng với các lực lượng kỵ binh khác tại châu Âu. Tuy vậy, tư duy chiến lược sử dụng kỵ binh trong tác chiến hiệp đồng cho phép kỵ binh Đức có hiệu quả cao hơn đồng thời giảm thiểu được thương vong đáng kể so với kỵ binh Pháp hay Nga. 

Giai đoạn Thế chiến thứ II đã cho thấy sự hiện đại hoá của kỵ binh Đức.
Các sư đoàn bộ binh chủ lực của Đức sử dụng kỵ binh cho nhiệm vụ trinh sát và liên lạc. Trong suốt giai đoạn 1939-1942, việc vận chuyển hậu cận bên cạnh vận chuyển pháo binh được thực hiện chủ yếu bởi ngựa. 
Do mỗi sư đoàn của Đức là một đội quân độc lập, kỵ binh giải quyết được bài toán liên lạc giữa các sư đoàn mà không cần tuyến thông tin, đặc biệt là trên một trận tuyến dài ở cự ly lớn bên cạnh việc duy trì tiếp liệu và vận tải cho các đơn vị độc lập.

Trong cuộc xâm lược Liên Xô, ngựa đã trở nên đặc biệt quan trọng do điều kiện thời tiết mùa đông tạo bùn lầy khắc nghiệt trên thảo nguyên Đông Âu. Sau khi xâm lược Liên Xô năm 1941, người Đức đã thiết lập các đơn vị kỵ binh Cossack để chống lại quân đội Sô Viết. 
Để chống lại các hoạt động của kỵ binh Liên Xô và các đơn vị dân quân du kích, người Đức cũng sử dụng kỵ binh cho nhiệm vụ tuần tra và bảo vệ các khu vực đóng quân.

Các đơn vị kỵ binh chiến đấu của Đức vẫn được trang bị kiếm cong kỵ binh, tuy vậy súng và lựu đạn đã trở thành trang bị chủ lực của một kỵ sĩ. Kỵ binh Đức trong Thế chiến thứ II được huấn luyện những kỹ năng chiến đấu bằng hai loại vũ khí trên trên lưng ngựa khá đặc biệt.

Kỵ binh Đức chủ yếu sử dụng ngựa để di chuyển và chiến đấu như bộ binh. Trong một số trường hợp các lực lượng này vẫn cận chiến trên lưng ngựa bằng trường thương và kiếm cong kỵ binh bên cạnh lựu đạn.

Trước sự cần thiết của kỵ binh trong cuộc xâm lược Liên Xô, người Đức đã tuyển mộ các đơn vị kỵ binh Cosack. Các đơn vị kỵ binh Cosack được  thành lập tại Đông Âu sau năm 1941 là các đơn vị thực hiện nhiệm vụ chiến đấu chủ lực trong lực lượng kỵ binh của Đức. 

Kỵ binh Cossack nổi tiếng về độ hung tợn và kỹ năng chiến đấu trên lưng ngựa của mình. Khả năng di chuyển và sinh tồn trên đồng bằng Đông Âu của người Cossack cũng vượt trội so với nhiều giống dân khác. 

II) Đế chế Nga:

Trước khi sụp đổ năm 1917, các đơn vị kỵ binh Cossack là niềm tự hào của quân đội Nga. Đây là lực lượng tinh nhuệ đóng vai trò xung kích trong những cuộc tấn công của quân đội Nga.

Kể từ thời của Sa Hoàng Ivan IV - Ivan Bạo chúa, Nga đã luôn có một lực lượng kỵ binh đáng sợ tại châu Âu. Các đơn vị kỵ binh Cosack đã gây ra nỗi khiếp sợ tại Đông Âu và để lại ảnh hưởng mạnh mẽ trong tâm lý của cư dân tại đây cho đến các thế kỷ sau.

Kỵ binh Nga trong giai đoạn thế kỷ 19 cho đến đầu thế kỷ 20 được trang bị khá tốt cho chiến tranh kỵ binh. Trang bị bao gồm súng carbine kỵ binh. Những khẩu súng này có tốc độ bắn nhanh hơn cũng như trọng lượng nhẹ hơn những khẩu súng khác. Vũ khí chính của họ vẫn là trường thương và kiếm cong. Chiến thuật chính của kỵ binh Nga là bắn chế áp từ xa trước khi xung phong đồng loạt trong những đội hình hàng ngang với trường thương. Kiếm cong được sử dụng để cận chiến. Những đơn vị kỵ binh này rất nguy hiểm trên chiến trường.  

Cuộc tấn công của tướng Brusilov, chiến thắng lớn nhất của Nga trong Thế chiến thứ I đã chứng kiến các đơn vị kỵ binh nặng đặc biệt tiến hành đột phá qua cửa mở đã được tạo bởi bộ binh và pháo binh. Các đơn vị này sau đó sẽ tiến hành bao vây - cô lập và tiêu diệt các vị trí phòng thủ cũng như hậu tuyến của kẻ thù. 
Bên cạnh đó, chúng cũng ngăn chặn quân tiếp viện của đối phương và tiêu diệt kẻ địch rút lui. 

Sau cách mạng tháng Mười năm 1917, cuộc nội chiến Nga bùng nổ. Kỵ binh là lực lượng nòng cốt trên chiến trường nước Nga.

III) Quân đội Liên Xô:

Liên Xô có một học thuyết tác chiến kỵ binh khá đồ sộ và chắc chắn. Dù ít được nhắc đến, kỵ binh Sô Viết đã hoạt động cho đến khi cuộc chiến kết thúc năm 1945. 

Khác với người Đức sử dụng kỵ binh cho nhiệm vụ yểm trợ, quân đội Sô Viết sử dụng kỵ binh cho nhiệm vụ chiến đấu trên diện rộng. Các đơn vị kỵ binh độc lập đã được thiết lập với số lượng lớn. Các đơn vị này thường hoạt động quấy rối sau trận tuyến của địch. Nhờ khả năng tự chủ về tiếp tế trên thảo nguyên Đông Âu, các đơn vị kỵ binh độc lập thường xâm nhập vào vùng địch và hoạt động quấy rối các tuyến tiếp tế, thông tin và các đơn vị ở tuyến sau của đối phương.

Trong giai đoạn chiến tranh, các đơn vị kỵ binh độc lập là một thành tố quan trọng trong chiến tranh du kích sau lưng địch của Liên Xô. Nhờ khả năng hoạt động độc lập và không phụ thuộc vào một tuyến hậu cần hay thông tin nào, các trung đoàn kỵ binh Sô Viết tạo thành những lực lượng đột kích đặc biệt và rất khó đối phó trong thực chiến. 

Kỵ binh Sô Viết thường di chuyển bằng ngựa và chiến đấu như bộ binh. Tuy vậy, chiến thuật xung phong và cận chiến bằng trường thương và kiếm cong vẫn là chiến thuật căn bản, đặc biệt là khi chống lại các đơn vị bộ binh. 
Trong học thuyết chiến tranh thế giới thứ II của Liên Xô, kỵ binh là một thành tố trong tác chiến hiệp đồng binh chủng.

IV) Ba Lan:

Ba Lan là quốc gia có truyền thống kỵ binh nổi tiếng tại châu Âu. Trong giai đoạn thế chiến, Ba Lan là một trong những quốc gia phát triển kỵ binh mạnh mẽ nhất. 

Các lữ đoàn kỵ binh độc lập của Ba Lan là một thành phần trọng yếu của quân đội nước này. Ba Lan đã có kinh nghiệm tác chiến kỵ binh đáng nể trong suốt giai đoạn 1919 cho đến khi kết thúc chiến tranh Liên Xô - Ba Lan lần 1. Kỵ binh Ba Lan đã có những trận đánh kỵ binh lớn với kỵ binh Sô Viết bên cạnh những trận đánh hiệp đồng quan trọng. 

Kỵ binh Ba Lan có cách tổ chức và tác chiến đặc trưng. Các lữ đoàn kỵ binh là các đơn vị cơ động độc lập. Trước cuộc xâm lược của Đức năm 1939 chúng đã được duy trì như những đơn vị dự bị chủ lực. 
Bên cạnh lực lượng chính, các lữ đoàn này còn có các đơn vị súng cối và pháo bắn thẳng. Khi tác chiến kỵ binh Ba Lan thường xuống ngựa và chiến đấu như bộ binh. Tuy vậy họ có thể đổi vị trí chiến đấu rất nhanh hoặc xung phong cận chiến từ trên lưng ngựa. Trường thương và kiếm cong kỵ binh vẫn là vũ khí cận chiến hiệu quả. 

Điểm đặc biệt của kỵ binh Ba Lan đó là các đơn vị kỵ binh chống tăng với súng và lựu đạn chống tăng có hiệu quả khá cao. Nhiều xe tăng Panzer I, II của Đức trong cuộc xâm lược Ba Lan năm 1939 đã bị tiêu diệt bởi lực lượng này. 

Kỵ binh Ba Lan đã tác chiến khá hiệu quả cho đến khi đất nước bị đánh bại năm 1939. 

V) Mông Cổ:

Cho đến tận thập niên 60-70 của thế kỷ 20, Mông Cổ vẫn duy trì các đơn vị kỵ binh chủ lực. Các lực lượng này kết hợp khá nhuần nhuyễn chiến thuật kỵ binh truyền thống, nổi bật là các đơn vị kỵ cung với vũ khí hiện đại. 

Các đơn vị kỵ binh sử dụng súng trường và lựu đạn tác chiến bên cạnh các đơn vị kỵ cung truyền thống là một đặc điểm nổi bật của kỵ binh Mông Cổ trong chiến tranh hiện đại. Bên cạnh những đặc điểm trên, kỵ binh
Mông Cổ vẫn còn rất lợi hại với kiếm cong và trường thương khi cận chiến.

Trong cuộc xung đột giữa Liên Xô và Nhật Bản năm 1938-1939, kỵ binh Mông Cổ là một trong những thành phần nòng cốt trong lực lượng Sô Viết. Trong giai đoạn 1920-1940, kỵ binh Mông Cổ là tác nhân chính đã đẩy bật các lãnh chúa quân phiệt Trung Quốc ra khỏi thảo nguyên.

VI) Trung Quốc:

Trung Quốc có kinh nghiệm khá lâu đời với việc sử dụng kỵ binh trong chiến tranh. Cuộc nội chiến Trung Quốc giữa phe Cộng Sản và phe Quốc dân đảng đã chứng kiến số lượng lớn kỵ binh được sử dụng. Các lực lượng kỵ binh này có cách tác chiến khá tương đồng so với kỵ binh của các nước khác.

Trong chiến tranh Triều Tiên, các đơn vị bộ binh TQ đã sử dụng ngựa cho nhiệm vụ hậu cần ở vai trò tích cực. Ngựa thồ vận chuyển lương thực, như yếu phẩm và đạn được là thành tố quan trọng trong các đơn vị bộ binh Trung Quốc. Các lực lượng kỵ binh đã dần trở thành dĩ vãng sau thập niên 50.

Ngày nay, đơn vị kỵ binh chiến đấu cuối cùng còn lại trên thế giới thuộc biên chế quân giải phóng nhân dân Trung Hoa. Đơn vị này là một tiểu đoàn kỵ binh đóng tại khu tự trị nội Mông. Được trang bị súng trường tấn công hiện đại bên cạnh lựu đạn và vũ khí chống tăng, đây là một lực lượng đặc biệt. Kiếm cong kỵ binh vẫn là trang bị bắt buộc với đơn vị này. 
Chiến thuật xung phong và sử dụng kiếm cong cận chiến vẫn là căn bản với đơn vị trên. 

Trong thời hiện đại, vai trò của kỵ binh chiến đấu đã kết thúc. Các đơn vị kỵ binh ngày nay chủ yếu phục vụ trong đội danh dự. 
Ở nhiệm vụ an ninh, một số nước vẫn sử dụng ngựa cho lực lượng cảnh sát cũng như các đơn vị sơn cước. 

Đây là bài viết mở đầu cho serie mới về kỵ binh trong chiến tranh hiện đại song song với serie vũ khí Anh của page, mong các mem chú ý đón đọc.

Cảm ơn mọi người đã đón đọc bài viết. 

Cras.

2184. 7 THỜI ĐIỂM KHÔNG ĐƯỢC PHÊ BÌNH TRẺ

.. 

GIA CÁT LUẬT 0921888869 sưu tầm 

Vy Trang theo Sohu/ Báo VnExpress

Khi trẻ đang ăn, tuyệt đối không nên chỉ trích trẻ. Ảnh: chinanews.

Phê bình, chỉ trích khi trẻ mắc lỗi nếu không đúng hoàn cảnh sẽ gây tác dụng ngược, khiến trẻ trở nên ngỗ nghịch hơn.

Dạy dỗ và giám sát trẻ nhỏ mặc dù là quyền của cha mẹ song điều đó không có nghĩa tùy ý thích dạy ở đâu, lúc nào cũng được, muốn lúc nào là dạy lúc đó.

Nếu không muốn biến việc dạy dỗ con cái thành cực hình với trẻ, bố mẹ cần nhớ 4 thời điểm tối kỵ dưới đây.

  1. Trong bữa ăn

Trung tâm nghiên cứu thanh thiếu niên Trung Quốc có một nghiên cứu mang tên “Thói quen sống của trẻ em thành thị Trung Quốc”, kết luận rằng: Hơn một nửa số trẻ em ở nước này bị chỉ trích trong khi ăn. Nguyên nhân là người lớn cho rằng khi cả gia đình quây quần, việc dạy dỗ con cái lúc này có tác dụng tốt nhất.

Nhưng quan điểm này hoàn toàn sai lầm.

Các nghiên cứu chỉ ra: Hệ tiêu hóa của con người có mối quan hệ rất khăng khít với cảm xúc, chất lượng cảm xúc cũng tỷ lệ thuận với tiêu hóa. Bị chỉ trích trong lúc ăn không chỉ ảnh hưởng đến tâm trạng mà còn ảnh hưởng lớn đến cảm giác ngon miệng. Việc ăn uống vì thế với trẻ không còn dễ chịu mà trở nên buồn tẻ và vô vị. Từ đó tác động xấu đến sức khỏe, tâm lý trẻ.

  1. Trước khi đi ngủ

Có một hiệu ứng trong tâm lý học, đề cập đến hiện tượng khi mọi người nhớ một loạt sự vật, hiệu ứng ghi nhớ của phần cuối tốt hơn phần giữa. Bởi vậy đứa trẻ bị chỉ trích trước khi đi ngủ sẽ cô đơn và buồn bã suốt đêm, và chúng sẽ nghi ngờ tình yêu của cha mẹ trong suốt giấc ngủ của mình. Nếu liên tục như vậy, trẻ sẽ có biểu hiện chán nản, mất ngủ và dễ gặp ác mộng hơn.

Nhiều cha mẹ bận việc nên chỉ có thời gian giao tiếp với trẻ trước khi ngủ và họ tận dụng thời điểm này để nói về chuyện học hành, la mắng, phàn nàn đủ kiểu. Cần nhớ, thời điểm trước khi đi

ngủ là lúc nên nói lời nhẹ nhàng, trẻ sẽ nhận thức dễ dàng hơn. Từ đó chúng cảm thấy tự tin và nhanh chóng sửa chữa được những sai lầm của mình.

  1. Trước mặt người ngoài

Dù nhỏ tuổi thì trẻ cũng có lòng tự trọng và biết xấu hổ. Nhiều cha mẹ vì một lý do nào đó không kìm chế được cơn nóng giận lúc trẻ mắc lỗi sẽ chê bai, mắng mỏ, không nể nang dù trước mặt nhiều người. Mục đích chính của hành động này là khiến trẻ phải xấu hổ và nhớ lâu lỗi lầm của bản thân hơn. Hoặc cha mẹ đôi khi sợ bị người khác đánh giá không biết dạy con nên phải chứng minh trước mặt mọi người thấy họ là cha mẹ hoàn hảo.

Trẻ con rất nhạy cảm, những lời khen có thể chúng nhớ không hết nhưng nếu chỉ mắng một lần có khi trẻ sẽ nhớ suốt đời. Nếu tình trạng này kéo dài sẽ làm trẻ mất tự tin, đặc biệt là đối với những trẻ đang ở lứa tuổi trưởng thành sẽ hình thành thói quen phản kháng, cha mẹ nói gì làm ngược lại. Chẳng ai muốn bị chỉ trích nơi công cộng, dù người lớn hay trẻ nhỏ cũng như nhau.

  1. Khi trẻ ốm

Đứa trẻ bị ốm bản thân đã rất khó chịu. Những lời phê bình lúc này sẽ chỉ càng làm tâm trạng trẻ xấu đi, tạo thêm áp lực tinh thần cho chúng.

Muốn phê bình con cái, bố mẹ cũng cần phải chọn thời điểm thích hợp. Ảnh: sina

Khi đứa trẻ khỏe mạnh, những lời chỉ trích có thể chấp nhận được, nhưng khi trẻ mệt mỏi, ốm đau, sự mỉa mai của cha mẹ sẽ tăng gấp đôi sự tàn nhẫn. Nếu cha mẹ quen rắc muối lên vết thương của con, kết quả là vết thương cũ chưa lành, lại có thêm vết thương mới. Đứa trẻ vốn mỏng manh về thể xác lẫn tinh thần khi ốm, rất cần sự ôm ấp, vỗ về của bố mẹ, lúc này phải ngừng hẳn việc chỉ trích.

  1. Khi trẻ thừa nhận sai lầm

Khi trẻ mắc lỗi, chúng rất có ý thức về lỗi lầm của mình. Nếu trẻ biết mình đã sai ở đâu mà cha mẹ không ngừng chỉ trích, làm vậy không những vô nghĩa mà còn khiến trẻ có suy nghĩ tiêu cực hơn.

Các nghiên cứu chỉ ra rằng, những đứa trẻ hay bị đổ lỗi và khen ngợi thường có những cách đối mặt với khó khăn khác nhau, một người sẽ có tâm lý rút lui và né tránh, trong khi người kia sẽ chủ động giải quyết mọi việc.

  1. Khi trẻ đang vui hoặc buồn

Trẻ đang vui mà bị mắng không khác gì đang đi chơi lại gặp bão. Khi tâm trạng đang vui mừng vì đạt được điều gì đó thì đột nhiên bị la mắng có thể khiến trẻ bị hụt hẫng, thậm chí bị shock tinh thần, mất động lực để cố gắng.

Tương tự như vậy, la mắng con khi tâm trạng trẻ không vui cũng ảnh hưởng tiêu cực tới cảm xúc của trẻ. Ví dụ, khi trẻ bị điểm kém, vốn dĩ đã không vui, về nhà lại bị la mắng, chỉ trích khiến tâm trạng xấu đi càng nhiều. Từ đó sẽ sinh ra tâm lý sợ sệt hoặc giấu diếm, không dám nhận sai khi mắc lỗi.

  1. Khi bố mẹ đang nóng giận

Khi bố mẹ đang nóng giận, rất dễ rơi vào trạng thái vừa mở miệng đã muốn mắng người. Trong trường hợp này, nếu đem chuyện của con cái ra dạy bảo, bố mẹ sẽ dễ dàng làm tổn thương con trẻ, đồng thời phá vỡ hình tượng của bố mẹ trong mắt trẻ.

Trong lúc này, các bậc phụ huynh cần hạ hỏa, đợi bình tĩnh trở lại hãy chỉ bảo cho con cái điều hơn lẽ thiệt.

NGUỒN:  Theo Báo VnExpress

Link bài: 7 thời điểm…

https://vnexpress.net/7-thoi-diem-khong-duoc-phe-binh-tre-4335368.html

🐲KINGLONG WONMAN ĐĂNG - CAO TỔ CỦA NHỮNG VỊ VUA

  2019 thuê nhạc sĩ  phổ nhạc bài này làm hiệu doanh nghiệp, làm nhạc chờ công ty, giờ có rồi, nên lưu lại ở đây làm kỹ niệm  ĐĂNG CHO VAY -...