CHUYỂN ĐỔI NGÔN NGỮ BLOG

Thứ Tư, 15 tháng 9, 2021

2262.CHIẾN THUẬT VÀ KỸ THUẬT TÁC CHIẾN CỦA QUÂN MÔNG CỔ

 Sưu tầm 






Quân đội Mông Cổ là đội quân kỳ lạ và hùng mạnh nhất từng xuất hiện trong lịch sử thế giới. Kể từ khi Thành Cát Tư Hãn (Genghis Khan) thống nhất các bộ lạc Mông Cổ và bắt đầu bành trướng, cả thế giới đã phải khiếp sợ trước sức mạnh của người Mông. 


Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ nhất, quân đội nhà Trần đã phải bất ngờ trước kẻ thù này. Trận Bình Lệ Nguyên là trận đánh đầu tiên của Đại Việt chống lại người Mông Cổ, tại đây quân nhà Trần đã buộc phải rút lui và tổ chức kháng chiến. Vậy quân đội Mông Cổ chiến đấu ra sao?

Trước tiên các lực lượng này được biên chế thành các đơn vị 10 người, được chỉ huy bởi một thập trưởng (Arban). 10 đơn vị này gộp lại thành một đội quân 100 lính, được chỉ huy bởi một Zuun. 10 đơn vị 100 người này gộp lại thành một đơn vị 1000 lính được chỉ huy bởi một Mingghan. 10 đơn vị 1000 lính này gộp lại sẽ tạo ra biên chế quân độ lớn nhất gồm 10.000 quân được chỉ huy bởi một Tumen. 


Hệ thống trên được Thành Cát Tư Hãn thiết lập dựa vào cách tổ chức xã hội bộ lạc cũ của người Mông Cổ. Các chỉ huy của các đơn vị được cắt đặt dựa theo thứ bậc trong các bộ lạc và thị tộc cũng như độ trung thành của họ với Đại Hãn. Một khi đã biên chế vào một đơn vị, việc chuyển đổi đơn vị là không thể. 

Cách tổ chức này rất tân tiến so với thời đại. Nó cũng cho phép quân đội Mông Cổ tổ chức chiến đấu và di chuyển linh hoạt hơn rất nhiều đối phương.


Một lính kỵ binh Mông Cổ luôn mang theo ít nhất 3-4 con ngựa. Việc này cho phép anh ta di chuyển liên tục mà không cần dừng lại. Khi cần kỵ sĩ chỉ cần đổi sang ngựa khác. Ngoài ra chúng cũng phục vụ như nguồn thức ăn tươi cho quân đội. Binh lính Mông Cổ chủ yếu ăn thịt ngựa khô và uống sữa ngựa. Trong trường hợp thiết yếu kỵ binh Mông Cổ có thể uống máu ngựa để sinh tồn. Mỗi người lính tự mang theo vũ khí và lương thực căn bản (chủ yếu là thịt ngựa khô, nước uống) cùng tư trang thiết yếu theo bên mình.

Quân trang và nhu yếu phẩm cho toàn quân được chuyên chở trên những chuyến xe hậu cần. Quan trọng nhất trong số đó là mũi tên. Trong những chiến dịch lâu dài người Mông còn mang theo cả máy công thành và máy bắn đá. 

Vũ khí căn bản của kỵ binh Mông Cổ là cung và tên, kiếm cong, trường thương, ngoài ra còn có cả chùy tay và khiên tròn trong một số trường hợp. Kiếm cong rất tiện lợi cho việc chém từ trên lưng ngựa. 


Còn sức mạnh của người Mông Cổ trên chiến địa ra sao? Trước khi tiến công, phía trước các đội quân lớn luôn có các toán trinh sát di chuyển rất nhanh và bí mật. Việc liên lạc được duy trì bằng hình thức phi ngựa chạy trạm. 

Một khi đã vào trận, quân Mông Cổ tạo nên thế trận rất ghê gớm. Đầu tiên, các đơn vị kỵ binh nhẹ di chuyển thẳng về đối phương, vừa di chuyển vừa phủ rợp bầu trời bằng trận mưa tên. Khi gần đến vị trí của kẻ thù, chúng rẽ hướng sang hai bên cánh và cứ liên tục tạo thành các vòng tròn quần đảo liên tục. Kỵ binh Mông Cổ có kỹ năng đặc biệt có thể xoay ngược người và bắn cung trên lưng ngựa với độ chính xác cao. Như vậy các trận mưa tên là liên tiếp. 


Một khi đội hình trên trận tiền của đối phương bắt đầu suy yếu, các đơn vị kỵ binh nặng hơn trang bị trường thương và kiếm cong cùng chùy tay sẽ tấn công thẳng vào các vị trí sơ hở. Đây giống như các cỗ máy công thành đánh bung đội hình của kẻ thù. Chúng có thể rút ra nếu trận thế vẫn còn vững. Tất cả điều này được thực hiện dưới làn mưa tên áp đảo. Một khi trận thế của đối phương đã vỡ, các đơn vị chủ lực dồn vào các khe hở và đánh bật chúng ra, tạo thành cửa mở cho toàn quân xung sát. 


Trong những trường hợp này, các cánh quân Mông Cổ cơ động nhanh thường sẽ bất ngờ xuất hiện từ hai bên cánh đánh bọc sườn hoặc xuất hiện từ đằng sau đánh vào vị trí chỉ huy và tuyến sau của đối phương. Như vậy đảm bảo việc kẻ thù bị hủy diệt hoàn toàn trên chiến địa và cuộc chiến kết thúc nhanh gọn. 

Trong suốt trận chiến, các cỗ xe hậu cần thường xuyên di chuyển giữa các tuyến quân chuyên chở tên và thương binh. Người Mông Cổ sử dụng tù và cùng cờ lệnh để liên lạc với nhau trong chiến trận. Một cách ít phổ biến hơn nữa là sử dụng mũi tên lệnh để ra hiệu. 


Khi công thành, người Mông Cổ sẽ bất ngờ xuất hiện từ một hướng không ngờ như trong cuộc xâm lược Khwarezmia và tấn công thành trì mãnh liệt. Sử dụng thang đột kích các vị trí trọng yếu của tòa thành với tốc độ chớp nhoáng kết hợp với các khí cụ công thành có thể cùng hành tiến nhanh với quân đội. Tuy nhiên khi phải công thành lâu dài, quân Mông Cổ dựa vào các vũ khí công thành uy lực truyền thống để giành chiến thắng. Các vũ khí này rất đa dạng, từ các loại máy bắn đá khác nhau cho đến các máy công thành chuyên để phá cửa, bên cạnh đó người Mông Cổ cũng thường xuyên sử dụng đại bác sơ khai bắn đạn đá trong giai đoạn thế kỷ 13 trở đi. Vào thời điểm này cuộc chinh phạt Kim đã hoàn tất và kỹ thuật thuốc nổ của người Trung Nguyên đã được học tập bởi người Mông.


Chiến tranh tâm lý cũng là cốt lõi trong tư duy quân sự của Thành Cát Tư Hãn. Người Mông Cổ thường đối xử tốt với ai theo mình và giết tất cả những ai chống đối. Các thông tin về sức mạnh của người Mông cũng được cố tình lan truyền qua những người sống sót và thương buôn. Trong nhiều chuyện kể dân gian, người ta nói rằng người Mông Cổ giết tất cả mọi sinh vật sống trong thành phố đã được ra lệnh hủy diệt. Chỉ cần một con chuột còn sống cũng có thể khiến chỉ huy đơn vị bị chém đầu.


Hệ thống tình báo tinh vi cũng là yếu tố chính đóng góp cho sự thành công của Thành Cát Tư Hãn. Trước khi xâm lược một quốc gia, người Mông Cổ luôn đối đã rất tốt với các thương buôn, thu thập thông tin từ các câu chuyện của họ. Cùng lúc đó, việc bắt cóc người bản xứ kết hợp với dụ dỗ, mua chuộc cũng là chiến thuật căn bản của người Mông. Các đoàn thương buôn hoặc các toán kỵ binh nhỏ được phái đi thực hiện nhiệm vụ trinh sát thường đem lại các thông tin tình báo rất quan trọng cho việc chuẩn bị xâm lăng. 


Với cách chuẩn bị chiến tranh, tổ chức quân đội và tác chiến mãnh liệt, người Mông Cổ đã xây dựng nên một đế chế lớn mạnh kéo dài khắp từ châu Á đến châu Âu, chỉ dừng lại tại cửa ngõ châu Phi và vùng Đông Âu (khu vực Ba Lan - Hungary ngày nay)


Trong ảnh: 

1. Kỵ binh Mông Cổ tấn công bên sườn của đội hình bộ binh Novgorod.

2. Một lính kỵ binh Mông Cổ điển hình với giáp trụ, cung tên và kiếm cong.


Cras.

2261.DÂN DU MỤC VÀ CHIẾN TRANH PHI QUÁN TÍNH

 sưu tầm 




Tranh vẽ: Một chiến binh du mục* trong trang phục thường ngày của mình. Vũ khí chủ lực của anh ta là cung tên với bộ mũi tên đa dụng được thiết kế đặc thù cho chiến tranh cung tiễn. Thanh gươm cong đặc trưng của thảo nguyên là vũ khí cận chiến chủ lực của anh.


Sống trong môi trường thảo nguyên khắc nghiệt, tách biệt với thế giới đô hội văn minh, dân du mục thảo nguyên là những kẻ phi truyền thống. Tuân thủ theo quy luật hà khắc của tự nhiên, thực dựng và khắc nghiệt, người du mục tận dụng mọi thứ họ có thể và tối giản trang bị của họ đến mức tối đa. Tối giản hóa mọi thứ mình có cho sinh tồn nhưng phải duy trì sức mạnh chiến đấu - sinh tồn của mình đến tối đa, dân du mục đã dần phát triển công nghệ và tư duy của mình theo cách khác biệt với các sắc dân văn minh: khoa học, thực dụng, tối giản và hiệu quả đến tàn bạo.


Sinh trưởng trong môi trường nghèo tài nguyên, với nguồn lợi dồi dào nhất là các loài thú hoang dã, dân du mục lớn lên từ việc săn bắt và thuần hóa thú hoang. Ở môi trường này, cung tên là vũ khí hoàn hảo. Có thể bắn hạ con mồi từ hơn 200 m**, với khả năng hạ con mồi bằng một phát bắn chính xác duy nhất (vào nội tạng trọng yếu của con mồi), một kỵ sĩ Mông Cổ với cung tên trên tay là kẻ săn mồi tối thượng của thảo nguyên. 


Lối sống hoang dã khắc nghiệt, sức mạnh đặc thù của cung tên, cộng với điều kiện tự nhiên nghèo nàn với tài nguyên ít ỏi đã khiến người du mục bám chặt vào lối tư duy chiến tranh cung thuật của họ. Thảo nguyên xưa kia là vùng đất khắc nghiệt nghèo tài nguyên. Trong khi da thú, da thuộc gia súc là những nguồn nguyên liệu khả dĩ nhất cho sản xuất quần áo, người Mông Cổ có rất ít nguồn quặng sắt có thể khai thác được. Những mỏ sắt duy nhất có thể khai thác (thủ công) được của thảo nguyên Mông Cổ xa xưa nằm ở dãy núi Altai, nơi các bộ tộc cạnh tranh nhau khốc liệt để có được quyền khai thác sắt. Số lượng sắt ít ỏi mà dân du mục có thể khai thác được đều được tập trung sản xuất những công cụ thiết yếu nhất, trong đó đầu mũi tên là sản phẩm được đặc biệt chú trọng do sự quan trọng của nó với lối sống của người Mông Cổ. Tiến hóa lên theo lối tư duy này, người du mục đã tập trung vào phát triển thiết kế mũi tên và kỹ thuật cung của mình, tối ưu hóa sức mạnh truyền thống của thảo nguyên chứ không đi vào phát triển giáp sĩ như các sắc dân định cư đương thời***. 


Cung tên và lưng ngựa làm chủ đạo, kỵ sĩ Mông Cổ thường mặc giáp vải dày may từ lông cừu hay da thú. Nhẹ, giữ ấm tốt, dễ sử dụng liên tục, được thiết kế đặc biệt để bảo vệ khỏi cung tên, bền và dễ sản xuất từ các nguồn nguyên liệu sẵn có, áo giáp da - vải lông cừu là người bạn tin cậy của một kỵ sĩ du mục. Những chiếc áo lông cừu đan theo lối thảo nguyên đặc trưng với các lớp vải dày đan lồng vào nhau là loại áo giáp đặc biệt cho chiến tranh cung tiễn. Một mũi tên cắm vào lớp áo này có thể bị chặn lại bởi lớp vải dày đan vào nhau và có thể được rút ra dễ dàng bởi kỵ sĩ. Giáp vải dày của dân du mục giúp các chiến binh của họ vận động nhịp nhàng - dễ dàng và có thể thực hiện những cử động phức tạp (quay ngược người về sau và bắn tên) mà những loại giáp nặng của các sắc dân khác không cho phép. Sử dụng loại giáp đặc biệt này, kỵ binh du mục có thể thoải mái khai triển lối chiến tranh cung tiễn tầm xa của mình mà không gặp bất kỳ hạn chế nào trên chiến địa.


Giáp trận trên lưng ngựa với trang bị gọn nhẹ và cung tên đặc thù, người du mục dựa vào kỹ - chiến thuật chiến đấu của mình (phát triển lên sau hàng thế kỷ chiến tranh) để thủ thắng. Có thể giao tranh trong các khối quân nhỏ của các thị tộc chỉ vài chục người choi đến hàng trăm người, cũng có thể tập hợp lại trong những đội quân hàng ngàn cho đến hàng vạn lính tinh nhuệ đối đầu nhau trong những đội quân du mục toàn là kỵ binh, người du mục tuân theo một lối khoa học chiến tranh tự nhiên phi quán tính nằm ngoài khuôn khổ tư duy quân sự của các nền văn minh khác. Trong khi dân định cư lấy nền tảng bộ binh làm gốc thường thiết lập trận thế theo bài bản của mình (với các khối quân - sắc lính khác nhau), các khối kỵ binh Mông Cổ được thiết lập theo tư duy của chỉ huy dựa theo thực tế chiến trường và chiến đấu hoàn toàn theo khoa học chiến tranh của họ. Uyển chuyển, linh hoạt, dễ dàng phân tách - tập hợp, thay đổi - thích ứng và lấy đấu tên, giao tranh chớp nhoáng với kiếm cong làm trọng, dân du mục là hình mẫu kinh điển của chiến tranh phi đối xứng và phi quán tính trong lịch sử chiến tranh. Nỗi kinh hoàng mà họ đã đem đến cho các sắc dân định cư, các nền văn minh khác là ví dụ kinh điển cho sức mạnh của tư duy chiến tranh du mục phi quán tính. 


Sau khi Thành Cát Tư Hãn thống nhất các sắn dân du mục và thành lập Đế Chế Mông Cổ, đem sức mạnh của người du mục đi khắp thế giới, thế giới Trung Cổ bảo thủ sẽ lần đầu tiên chao đảo trước tư duy phi quán tính và khoa học thực dụng của người Mông. Khoa học, thực dụng, tối giản và hiệu quả đến tàn bạo, tư duy du mục của thảo nguyên có lẽ sẽ còn gây ảnh hưởng lên thế giới đến nhiều thế kỷ sau. 


*: Trên thảo nguyên hoang dã, có rất nhiều bộ lạc du mục khác nhau. Trong khi ngày nay danh xưng Mông Cổ được dùng để chỉ chung các sắc dân du mục đến từ thảo nguyên phương Bắc, các bộ tộc ở xa xưa ở đây rất đa dạng. Ví dụ điển hình nhất là các sắc dân du mục phía Bắc thảo nguyên tại vùng Siberia, vốn được coi là người Mông Cổ nhưng lại có huyết thống khác biệt với người Mông. Một ví dụ khác nữa là các bộ tộc du mục thảo nguyên gốc Hung - Kazak vốn có số lượng đông đảo và từng tồn tại với tư cách các bộ lạc - thị tộc độc lập trên thảo nguyên cho đến khi Thành Cát Tư Hãn kiến lập Đế Chế Mông Cổ. Các bộ lạc này sẽ để lại ảnh hưởng lớn lên khu vực Trung Đông và hình thành nền văn hóa đặc trưng của mình. 

**: khoảng cách bắn cung của Mông Cổ được tính bằng cung (bow), vối mỗi cung tương đương 1 m, hay 1,1 m. Trong khi kỵ binh Mông Cổ trên chiến trường có lối tấn công áp sát đặc trưng (có thể áp sát đến 50 - 100 m), một kỵ sĩ Mông Cổ có thể khai tiễn hiệu quả tư cách xa 200 m. Cung Mông Cổ có tầm bắn lý thuyết lên đến 500 m về mặt kỹ thuật. 

***: các sắc dân định cư như người Hán ở đồng Trung Nguyên sẽ đánh trọng vào tư duy bộ binh và các kỹ thuật của nó do đặc trưng sống quần cư của mình. Giáp sĩ (lính giáp nặng) của người Trung Hoa có thể coi là sự phát triển kỹ thuật trực tiếp của tư duy dân định cư. 


Cras.

🐲KINGLONG WONMAN ĐĂNG - CAO TỔ CỦA NHỮNG VỊ VUA

  2019 thuê nhạc sĩ  phổ nhạc bài này làm hiệu doanh nghiệp, làm nhạc chờ công ty, giờ có rồi, nên lưu lại ở đây làm kỹ niệm  ĐĂNG CHO VAY -...