CHUYỂN ĐỔI NGÔN NGỮ BLOG

Chủ Nhật, 27 tháng 6, 2021

2065.TU LUYỆN THÁNG NGÀY - Trải qua bể dâu đằng đẵng, điều gì là khó nhất trong kiếp nhân sinh?

GIA CÁT LUẬT 0921888868 sưu tầm 

 1. Khó cải biến nhất chính là ‘thói quen’



Trong cuộc sống, có rất nhiều thói quen luôn đi theo bạn như hình với bóng, chẳng hạn như trì hoãn, lười biếng, ngủ muộn, bỏ dở nửa chừng. . . . . .



Những thói quen này thoạt nhìn thì nhỏ, nhưng một lúc nào đó sẽ ảnh hưởng hết sức tiêu cực đến chúng ta. Bởi vì thói quen xấu sẽ hủy đi một người, thói quen tốt sẽ thành tựu một người; thói quen một người như thế nào sẽ sinh ra tính cách như thế đó.



Muốn cải biến thói quen thì vô cùng khó, phải kiên trì không bỏ cuộc, bắt đầu từ bước nhỏ thì mới có hy vọng thành công. Ví dụ, nếu như cảm thấy đọc sách quá buồn tẻ, thì phải ép bản thân mỗi ngày đọc 5 trang; nếu như cảm thấy vận động quá cực khổ, liền mỗi ngày chạy bộ 10 phút, dù là đi tản bộ dưới lầu cũng được; nếu thấy thức dậy sớm là một loại cực hình, thì mỗi ngày thức dậy sớm hơn ngày hôm trước 5 phút.



Những cải biến rất nhỏ này từ từ theo thời gian sẽ biến thành thói quen tích cực mới của bạn. Thói quen nhỏ từng chút một sẽ tụ thành năng lượng, để bạn từng chút một tốt hơn chính mình.



2. Khó tìm nhất là ‘tri âm’



Có nhà khoa học từng làm một thống kê, chúng ta cả đời sẽ gặp qua 8.263.563 người, trong đó 3.619 người sẽ trở thành bạn, 275 người trở thành bạn thân thiết, những người còn lại thì chỉ lướt qua, vội đến rồi lại vội đi.



Cả đời này, hầu như rất khó tìm được người có thể cùng chúng ta đi đến cuối cùng, nếu như gặp được thì chính là may mắn vạn phần.



Trong cuộc đời liệu có người như vậy hay không? hiểu được tâm ý của nhau, vinh nhục cùng hưởng, không rời không bỏ, tựa như Tô Thức cùng Hoàng Đình Kiên.



Nửa đời sau của Tô Thức hết lần này đến lần khác bị giáng chức, Hoàng Đình Kiên lần nào cũng đứng ra bênh vực ủng hộ ông nên bản thân cũng không được trọng dụng. Nhưng Hoàng Đình Kiên không hề nhạt phai tình nghĩa với Tô Thức. Hai người vẫn thường xuyên làm thơ, luận văn, trò chuyện cười nói vui vẻ. Hoàng Đình Kiên vì ngưỡng mộ danh tiếng vang xa của Tô Thức mà đến, nhưng khi danh vọng của Tô đang ở đáy vực thì Hoàng cũng không quay người rời đi. Đây chính là tri kỷ.



tri kỷ

Tri kỷ là có thể hiểu được tâm ý của nhau, vinh nhục cùng hưởng, không rời không bỏ. (Ảnh qua Đẹp Việt)

Có câu “bạn nhậu dễ kết giao, tri kỷ một người cũng khó được”. Trong đời chúng ta thông thường sẽ gặp rất nhiều bằng hữu, nhưng người thực sự hiểu bạn thì không có bao nhiêu; người có thể để bạn thổ lộ tâm tình thì lại càng hiếm.



Tri kỷ chân chính không phải là người đi cùng bạn một phút không rời, mà là người có tâm hồn luôn đồng hành với bạn, luôn cộng hưởng và thấu hiểu nhau. Nếu như vô tình gặp được người như vậy thì nhất định phải trân quý.



3. Khó dự liệu nhất là ‘thế sự’



Trong cuốn ‘Đào Hoa Phiến’ có câu: “Mắt thấy hắn lên lầu son, mắt thấy hắn tiệc rượu với khách, mắt thấy hắn nhảy lầu rồi”. Chỉ mấy lời nhưng lại nói ra sự bất lực chua xót trước thế sự khó lường.



Thế sự vô thường, trong cuộc đời ai cũng khó tránh phải trải qua những thay đổi thăng trầm. Chỉ có trải qua đủ loại đắng cay ngọt bùi mới có thể hiểu được sự mỹ diệu của sinh mệnh. Hãy thích ứng trong mọi tình cảnh, bằng lòng với những gì mình đang có vì bạn vĩnh viễn không biết ngày mai ra sao và điều bất trắc nào sẽ đến trước. 



4. Khó đạt được nhất chính là ‘thỏa mãn’



Dục vọng cũng giống như tuyết rơi, tích tụ càng nhiều sẽ càng khiến bản thân lầm lạc, từ đó mất phương hướng. Người sống trên đời nếu biết đủ là hạnh phúc lớn nhất.



Thời nhà Minh, có một người tên là Hồ Cửu Thiều, ông mỗi ngày đều đốt hương bái Phật, cảm tạ ông Trời vì ngày ngày điều ban cho ông thanh phúc.



Vợ ông trông thấy liền cười nói: “Chúng ta 1 ngày 3 bữa đều là cơm rau dưa, sao có thể nói là hưởng thanh phúc chứ?”



Hồ Cửu Thiều chậm rãi nói: “Một là chúng ta đang sống trong thời thái bình thịnh thế, không chịu nỗi khổ chiến tranh; hai là chúng ta không lo áo cơm, có áo mặc, có cơm ăn; ba là thân thể khỏe mạnh, không có bệnh, không phạm sai lầm để bị giam trong ngục, như thế không phải là hưởng thanh phúc sao?”



Đúng vậy, thỏa mãn chính là trạng thái nhân sinh tốt nhất.



Trong cuốn ‘Tăng quảng hiền văn’ có câu: “Lương điền vạn khoảnh, nhật thực nhất thăng; quảng hạ thiên gian, dạ miên bát xích”, tạm dịch là ruộng đất ngàn vạn mẫu, ngày ăn chưa đến kg gạo; nhà cao cửa rộng ngàn gian, đêm ngủ chỉ có 8 thước.



Nhiều lúc không phải là chúng ta có không đủ nhiều mà là không biết đủ. Hạnh phúc chân chính từ xưa đến nay không phải do nhân tố bên ngoài quyết định mà bắt nguồn từ nội tâm.



Tu dưỡng một tấm lòng nhân hậu, không so đo, không ganh đua, không đố kị mới có thể ôm giữ hạnh phúc.



5. Khó phỏng đoán nhất chính là ‘lòng người’



Hai chữ khó hiểu nhất trên đời chính là ‘lòng người’, nhiều lúc cho người ta tất cả cũng chưa chắc đổi được tấm lòng chân thật của họ. Vậy nên không nên đặt quá nhiều kỳ vọng vào người khác, cũng đừng đánh giá quá cao vị trí của bản thân trong lòng mọi người.



Tử Vi




2064.TU LUYỆN THÁNG NGÀY-3 câu nói giúp bạn có được tâm thái tốt nhất khi đối diện với cuộc đời

 GIA CÁT LUẬT 0921888868 sưu tầm 



Phật gia có giảng rằng: “Vật tùy tâm chuyển, cảnh từ tâm tạo, mọi phiền não đều là do tâm mà sinh ra”. Vạn sự vạt vật trên đời đều là sự phóng chiếu của tâm hồn, vậy nên vận mệnh của con người 90% không phải do sự tình quyết định, mà là tâm thái quyết định. 


 

Vật tùy tâm chuyển, cảnh từ tâm tạo, mọi phiền não đều là do tâm mà sinh ra. (Ảnh: Pinterest)

Một triết gia từng nói: “Hoặc là bạn khống chế sinh mệnh, hoặc là sinh mệnh khống chế bạn. Tâm thái của bạn sẽ quyết định ai là người cưỡi và ai là vật để cưỡi”. 


Bạn không thể kéo dài được sinh mệnh, nhưng bạn có thể mở rộng được nó, bạn không thể thay đổi được thời tiết nhưng bạn có thể khống chế được tâm tình của mình, bạn không thể khống chế được hoàn cảnh nhưng bạn có thể điều chỉnh được tâm thái.


Dưới đây là 3 câu nói có thể giúp bạn đạt được tâm thái tốt nhất khi sống giữa cuộc đời đầy sóng gió này.


1. Được mất tùy duyên


Xưa nay có được tất phải có mất, được nhiều thì mất nhiều, được ít thì mất ít, đều là sự trao đổi công bằng.


Rất nhiều người đều mơ ước trúng số, nhưng thực tế cuộc sống sau khi trúng số lại không được như ý muốn. Có người từng thực hiện một cuộc điều tra xã hội, họ đã dành 10 năm để theo dõi sự thay đổi của một số người trúng số độc đắc. 


Những người trúng số thường là tầng lớp lao động bình dân, tưởng rằng có được tiền thì cuộc sống của họ sẽ được cải thiện. Nhưng sau khi nhận được những khoản tiền kếch xù, cuộc sống của họ lại ngày càng sa sút: ăn chơi lãng phí, họ hàng vay mượn tiền bạc, ly hôn, chuyển nhà… hầu hết đều trượt dốc vì họ không thể giải quyết ổn thỏa tiền bạc.


Mọi thứ trên đời đều có cả mặt tốt và mặt xấu. Vì vậy, một người thực sự có trí tuệ cần hiểu rằng: được không có gì vui, mất không có gì buồn. Đối mặt với bất kỳ tình huống nào trong cuộc sống, đều có thể ‘được mất tùy duyên’, tâm không dao động.


 

Một người thực sự có trí tuệ cần hiểu rằng: được không có gì vui, mất không có gì buồn. (Ảnh: Pinterest)

2. Biết đủ thường vui


Trong “Thái Căn Đàm” có câu: “Tham đắc giả, phân kim hận bất đắc ngọc, phong công oán bất thụ hầu”. Ý rằng, tâm người hữu hạn, nhưng ham muốn lại vô hạn, người có vàng vẫn muốn ngọc, có công tước mà vẫn nghĩ đến hầu tước. Không sớm thì muộn, người mà có truy cầu vượt quá khả năng, vượt quá phúc phận của mình, thì trước sau đều gây họa.


Vào thời nhà Minh, Ninh vương Giang Tây Chu Thần Hào là con cháu hoàng thất, sống cuộc sống giàu sang. Thế nhưng ông không an phận làm Vương, lại muốn tiến thêm một bước trở thành Hoàng đế. 


Tiếc rằng cuộc nổi loạn mới chỉ diễn ra 43 ngày đã bị Tuần phủ Nam Cám Vương Thủ Nhân (hay Vương Dương Minh) cùng Thái thủ Cát An Ngũ Văn Định dẹp yên. Ninh vương cuối cùng đã bị bắt giữ và được ban cho cái chết.


Nghiêm Tung (1480 -1567) được sử sách triều Minh liệt vào danh sách 6 đại gian thần của triều đại. Cha con gian thần Nghiêm Tung dùng quyền thế khuynh đảo thiên hạ trong 20 năm, khiến người người oán hận. Con trai của Nghiêm Tung là Nghiêm Thế Phiên cuồng vọng, cao ngạo đến cực điểm. Thậm chí khi khoe khoang về bảo vật trong gia đình, Nghiêm Thế Phiên từng cười lớn mà nói: “Trong triều đình không ai giàu có bằng ta”.


Hoàng đế Thế Tông từ lâu đã không thuận mắt với cha con Nghiêm Tung, sau đó đã đã tìm cớ bãi chức ông ta, con cháu và vây cánh đều bị phái đi biên ải. Nghiêm Thế Phiên trên đường đi đày trốn về quê làm đạo tặc, bị triều đình chém đầu. 


Vì gia sản bị tịch thu, Nghiêm Tung không còn nhà để về, sống trong sự phỉ nhổ của mọi người. Hai năm sau, Nghiêm Tung mắc bệnh nặng qua đời. Lúc Nghiêm Tung chết, thi thể được chôn mà không có quan tài, càng không có ai đến tiễn đưa.


Có câu rằng: “Cao ốc ngàn gian, đêm nằm ngủ cũng không quá hai mét, ruộng tốt vạn khoảnh, ngày ăn cũng không quá ba bữa”. Vậy hà cớ gì người ta không biết đủ, mà phải lao tâm khổ tứ truy cầu nhiều thứ như thế? Huống chi, tiền tài dù nhiều đến mấy, chức vị dù cao đến đâu đi nữa cuối cùng đến lúc sinh mệnh lìa đời thì đâu còn ý nghĩa gì.


Cao ốc ngàn gian, đêm nằm ngủ cũng không quá hai mét, ruộng tốt vạn khoảnh, ngày ăn cũng không quá ba bữa. (Ảnh: Pinterest)

3. Muốn hồ đồ thật khó


“Nan đắc hồ đồ” (muốn hồ đồ thật khó) là một câu nói khá nổi tiếng của Trịnh Bản Kiều, một thư họa gia đời Thanh. Tác giả từng chú thích về câu “Nan đắc hồ đồ” rằng: “Thông minh khó, hồ đồ khó, từ thông minh hóa thành hồ đồ càng khó, buông tay ra, lùi một bước, tâm sẽ an yên, sau này cũng không mong được đền đáp”. 


Có người nói: “Nhân sinh có hai sự kiện: tỉnh táo làm việc; hồ đồ làm người”. Hồ đồ là một loại tâm thái, cũng là một loại tu vi. Trong mắt của Khổng Tử, hồ đồ chính là “trung dung”; trong mắt người già, hồ đồ là “vô vi”; trong mắt Trang Tử, hồ đồ lại là “tiêu dao”.


Rất nhiều việc tốt hơn là không nên biết, không cần phải linh hoạt, cũng không cần phải quá hiểu rõ. Thật ra, cuộc đời vốn là hồ đồ, vui vẻ và hạnh phúc đều được giấu trong sự hồ đồ này. Một khi thức tỉnh, thì tất cả những hạnh phúc và vui vẻ, cũng sẽ tan thành mây khói.


Con người sống trên thế gian, đôi lúc chúng ta chỉ cần sống hồ đồ một chút, mắt nhắm mắt mở mà nhìn đời, như vậy là bỏ qua cho bản thân cũng là bỏ qua cho người khác. Phàm những người lúc nào cũng tính toán, đa phần cuộc sống không vui vẻ.


Hồ đồ với bạn bè, không toan tính mới bền lâu; hồ đồ với người yêu, cho hai người có không gian tự do; hồ đồ với tiền tài lợi lộc, không đau không tức; hồ đồ với tình người, lương tâm không cắn rứt; hồ đồ với những tin đồn vô căn cứ, không mệt đôi tai. Đường đời, cần phải hồ đồ mà đi qua, vui vẻ mà sống, biết đủ thường vui!


Tuệ Tâm (Theo Secretchina)


Có thể bạn quan tâm:


Trải qua bể dâu đằng đẵng, điều gì là khó nhất trong kiếp nhân sinh?

18 câu đạo lý nhân sinh có tác động vượt trên cả phong thủy

Nhân sinh cảm ngộ: Đời người càng ít mong cầu, trong tâm càng thanh thản

Từ Khóa :Hồ ĐồNhân SinhTâm TháiTùy Duyên

BÀI XEM NHIỀU - CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Miệng tích đức vận thế dễ được, duyên lành phúc báo đều từ đức mà ra


27/06/21, 07:00 Đọc & Suy ngẫm 1,067 lượt xem

Có người, tình cảm trắc trở, tài vận không thông, trăm sự đều gian truân. Lòng phiền muộn, ngôn từ hỗn loạn, không chú trọng khẩu đức, mà không biết rằng, ngoài miệng không tích đức, nặng lời với người cũng là tự tổn hại phúc báo của chính mình.


thiện niệm

Duyên lành phúc báo đều từ “Đức” mà ra. (Ảnh qua Guu)

Có người nói: “Tôi không hề làm một việc xấu nào, sao có thể tổn hại đến phúc đức được?”. Kỳ thực hãy nhớ rằng, tạo “khẩu nghiệp” cũng sẽ ảnh hưởng đến phúc báo. Một người có mệnh tốt hay không thảy đều nhìn xem người đó có hay không nhiều “khẩu đức”.


Duyên lành, thiện báo, phúc lộc, vận thế trên thế gian đều được sinh ra từ chữ “Đức”


Cổ nhân có câu: ”Buông lời cay độc 6 tháng hàn, một lời lương thiện ấm mùa đông”. Một câu nói vô tình có thể nở hoa hồng cũng có thể đâm gai độc, vì vậy hà cớ gì phải tổn thương người khác? Lời trách móc nặng nề chẳng khác gì đao kiếm, đâm 1 nhát tổn hại nhân tâm nào thua kém nỗi đau xác thịt.


Một khi đã gây ra lỗi lầm, dù về sau có hối hận mà xin lỗi thì chuyện cũng muộn. Vết thương lòng kia đã thành vết sẹo vĩnh viễn không phai nhạt.


Cho dù không có ác ý, chỉ là ngoài miệng chua ngoa cũng làm tổn thương người như nhau


Tâm tốt, mà lời nói bất hảo thì đích thị là người xấu. Lên tiếng quở mắng không những hại người mà còn mất đức hại thân.


Miệng tu đức, chính tức là tự tu chính bản thân, cuồn cuộn chính khí.


Khắp thân tràn đầy chính nghĩa thì vận may, điều tốt lành sẽ kéo đến. Miệng tích đức, vận thế sẽ tốt. Đường đời thẳng tắp, công danh sáng lạn, đỡ phải vòng vo, sớm ngày thành tựu.


thiện niệm

Miệng tích đức, vận thế sẽ tốt. Đường đời thẳng tắp, công danh sáng lạn. (Ảnh qua My Eva)

Đời người cần phải… Một, học cách đối nhân xử thế, khiến người dễ chịu. Hai, học cách làm người ta cảm động


Ác ngữ tổn thương người, lời đẹp lắm điều hay. Làm việc không nên quá hà khắc, tâm xuất ra đừng nên nham hiểm. Không nói điều xằng bậy, tránh xa những lộng ngữ thị phi. Bỏ ngoài tai những lời cay độc. Tu tâm dưỡng tính có ảnh hưởng rất nhiều đến vận thế.


Người quân tử ngôn từ cẩn thận, nói là làm


Người kém thông minh thường nói xằng bậy, kẻ dối trá hay nói lung tung. Không cần mà cứ mãi nói thì thật lắm lời. Bàn thảo vấn đề mà chỉ nói chung chung không tường tận cuối cùng chỉ là nói mò, thiếu thực tế.


Người quân tử chỉ cần 1 lời trung thực cũng đủ thấu xương tủy, ấm lòng người.


Toàn trách người tất ôm hận về sau, hay nói xấu người sau lưng thì thù hận mãi không vơi. Đó là hành động của tiểu nhân.


Bậc trí giả ít khi nhiều lời, nói càng nhiều càng dễ sinh tai họa


Nói lời mà không có đạo lý chi bằng không nói. Lời không đạo lý tất sẽ tạo thị phi.


Một lần xuất ngôn hồ đồ, hậu quả tạo ra sẽ không bao giờ có thể cứu vãn. Dù mai sau có giật mình tỉnh ngộ giải thích thì sự cũng đã rồi.


Trò chuyện thân thiện thoải mái sẽ khiến người khác dễ chịu, họ sẽ thích ở bên bạn, nhờ đó mà kết giao bạn bè, gặp kỳ ngộ, kết lương duyên. Mọi quan hệ xã hội đều trở nên dễ dàng. Ta tốt với người, người tốt với ta. Làm được như vậy chính là đang thay đổi vận khí của mình trở nên ngày càng tốt đẹp hơn.


Chung quy lại: Hành thiện, tích đức, tất sẽ có phúc báo…


Hoàng An (Theo Cmoney)

2063.TU LUYỆN THÁNG NGÀY-THẾ giới sau đại dịch GIỮ GÌ? VỨT GÌ? THẤY GÌ?

 Bản dịch của Nguyễn Đức Nhuận 

Tuần báo L'Obs phỏng vấn nhà triết học Bruno Latour.
Hồ sơ - Tranh luận báo L’OBS
THẾ GIỚI “SAU”

GIỮ GÌ? VỨT GÌ? THẤY GÌ?

Của thế giới trước, chúng ta vứt bỏ gì? giữ lại gì? Chúng ta tạo được cái gì mới. Để tư duy “thế giới sau”, nhà triết học Bruno Latour đã thiết kế một bảng câu hỏi gồm ba điểm mà báo L’Obs(người quan sát) quyết định gửi đến hai mươi lăm nhân vật thuộc mọi chân trời, từ Nicolas Hulot lãnh đạo “Đảng Xanh” đến bà thủ tướng Iceland Katrín Jakobsdóttir, thông qua nhà văn Nicolas Mathieu giải thưởng Goncourt, nhà kinh tế Thomas Piketty, bà Isabelle Kocher cựu giám đốc tổng công ty năng lượng Engie, bà Valérie Pécresse, chủ tịch miền Ile-de-France. Một định hướng nổi bật từ những câu trả lời: loại bỏ các hoạt động phá hoại môi trường, phá hoại sự cố kết xã hội. Tăng cường Nhà nước phúc lợi và những giao thương gần kề. Nghĩ ra các tiêu chuẩn kinh tế và kế toán khác, sử dụng tốt công nghệ kỹ thuật số. Thiết lập những quan hệ mới với Trung Quốc.

Lược kê một số đề xuất[1]:

Thomas Piketty: “Tạo một thẻ carbon cá nhân
Katrín Jakobsdóttir: “Không còn chỉ suy luận bằng GDP thôi
Nicolas Hulot: “Bỏ tự do mậu dịch sang trao đổi công bằng
Valérie Masson-Delmotte: “Ngừng các hội nghị ở tận cuối trời
Nicolas Mathieu: “Viết tiểu thuyết vạch ra sự nghèo nàn cùng cực của hệ tư tưởng quản lý
Isabelle Kocher: “Xác định lại khái niệm thành công của các công ty
Olivier Rœllinger: “Ưu tiên các nhà sản xuất địa phương nhỏ”
Claire Nouvian: Dừng trợ cấp vận tải hàng không và ngư nghiệp công nghiệp
Laurent Berger: “Lập quyền đồng quyết định trong các công ty
Najat Vallaud-Belkacem: “Chấm dứt khinh miệt những người làm công việc vô hình
Gaspard Koenig: “Để các hoạt động tự phát triển và tự biến đi
Noémie de Grenier và Isabelle Nony: “Mở rộng các nguyên tắc tương tế cho toàn bộ nền kinh tế
Antoine Jouteau: “Tạo chứng nhận sinh thái cho các sản phẩm
Valérie Pécresse: “Tạo điều kiện cho mọi người chọn nơi sinh cư”
Bertrand Badie: “Chuyển sang hồi 2 toàn cầu hoá”
Anousheh Karvar: “Tạo tiêu chuẩn công ích cho thù lao công việc
Jules Salé: “Người giao hàng (delivero) có quyền hưởng lương
Karima Delli: “Tạo ra một quan niệm du lịch nhân văn
Bernard Stiegler: “Công nhận lao động ngoài công việc
Valérie Niquet: “Tạo ra những áp lực từ bên ngoài đối với Trung Quốc
Jean Rottner: “Chia sẻ lợi tức cổ phần; xây dựng một đại dự án tầm cỡ Airbus cho ngành y dược
Xavier Ricard Lanata: “Lập hệ thống kế toán sinh thái cho doanh nghiệp
Eric Piolle: “Giữ lại các quán cà phê và thay đổi các quy tắc ngân sách
François Godement: “Đa dạng hóa các đối tác công nghiệp của chúng ta
Bruno Latour[2]:
DÂN PHẢI ĐỨNG RA LÀM!
(Chính xã hội dân sự phải hành động!)
Theo triết gia xã hội học Bruno Latour, tác giả một bảng hỏi thăm dò ý kiến đã gợi ý cho hồ sơ số báo OBS này (số 2897, ngày 14/05/2020), thì chính sách phong tỏa do đại dịch COVID-19đã cho thấy các xã hội chúng ta có khả năng thay đổi không ngờ được. Tuy nhiên, người công dân cần phải biết rõ những gì họ muốn thay đổi...
Chúng ta sắp ra khỏi hai tháng phong tỏa và chính anh đã nhiễm dịch Covid. Anh đang trải qua thử thách này như thế nào?
- Tôi đã nhiễm hình thái Covid làm mệt mỏi nhưng không lâm trọng bệnh. Bị phong tỏa ở nhà, tôi đọc báo và cũng như mọi người khác, tôi rất kinh ngạc về mức độ bất định (không chắc chắn), trong lãnh vực y tế (không ai có thể cho tôi biết tôi được miễn trùng hay không, và vợ tôi có nhiễm bệnh hay không), cũng như trong lãnh vực xã hội vậy. Chúng ta đang chứng kiến một cuộc tái xác định tăng tốc của đời sống xã hội, vừa thảm khốc vừa gợi đam mê. Sau năm sáu tuần lễ, tôi có cảm tưởng cuộc phong tỏa đã khiến cho mọi người phát điên lên một chút...
Ta đã làm quá chăng?
Tôi không phải là một chuyên gia trong vấn đề này, nhưng tôi muốn so sánh với sự kiện khủng bố. Sau cuộc tấn công khủng bố 11/9/2001 tất nhiên là phải đối phó, các nhà nước chúng ta đã lao vào một chiến tranh khôn cùng chống khủng bố; phong tỏa là một phản ứng chính đáng, nhưng chúng ta không nên biến nó thành một trường kỳ chinh chiến chống vi trùng. Chúng ta phải sống với virus chứ; nhưng câu hỏi là: làm cách nào? Dịch bệnh không phải là một thảm họa tự nhiên rơi xuống đầu chúng ta. Đây là một quá trình tạp hợp, trong đó bạn phải đếm kể số lượng máy trợ thở dự trữ trong các bệnh viện, nghiên cứu các dịch bệnh trước đó và các dấu vết chúng để lại trên các hệ thống y tế, đánh giá khả năng của mọi người tuân theo các quy tắc ứng xử nghiêm ngặt… Có rất nhiều cách đối phó đa tạp và khả hữu với Covid, như chúng ta thấy ở Thụy Điển, Thụy Sĩ, Đức, Hàn Quốc, Đài Loan... Đây sẽ là chủ đề của các nghiên cứu không chỉ của các nhà dịch tễ học, mà còn của các nhà xã hội học, trong bốn mươi năm tới.
Có phải những tước đoạt tự do mà chúng ta phải chịu đựng ngày nay là khá nghiêm trọng?
Michel Foucault (1926-1984)
Emmanuel Macron (1977-)
Đúng vậy, phong tỏa hàng tỷ người thật là nghiêm trọng! Nhà nước đòi hỏi phong toả là chính đáng, nhưng đó là một tình huống nguy hiểm. Chúng ta đã để cho Nhà nước dẫn dắt. Ông Macron quản lý người Pháp như một gã chăn cừu và đàn cừu cúi đầu hợp ca be be. Đây là một mối quan hệ sống/còn rất cổ điển - để sử dụng khái niệm bio-pouvoir (sinh-quyền) của Michel Foucault. Nhưng mối ràng buộc này còn rất cổ hủ, khó sống khi người ta tin tưởng ở những lý tưởng tự do.
Đọc những phát biểu trên báo chí, bạn có cảm tưởng mọi người đã trở thành những người bảo vệ môi trường và muốn cấp cứu hành tinh. Đại dịch có lẽ sẽ thúc đẩy nhậnthức về tình trạng khẩn cấp khí hậu chăng?
Rất có thể, việc các xã hội của chúng ta đã nhanh chóng chấp nhận một biện pháp triệt để và toàn cầu như sự phong tỏa này, có liên quan đến nhận thức về những thách đố khí hậu. Một sự chuyển dịch phân tâm học, như hiệu ứng của một cái hình bóng phóng theo.
Để đối mặt với Covid chúng ta đã làm những gì đáng lẽ chúng ta phải làm cho khí hậu giảm nhiệt: đình chỉ, giảm tốc, giảm tiêu thụ... Trước khi xảy ra đại dịch Covid, ta đã bàn luận nhiều về khí hậu tăng nhiệt và mọi người đều biết đến những biện pháp đối phó, nhưng trong thâm tâm, không ai dám nghĩ rằng có thể thực hiện được những biện pháp này. Nhưng hiện giờ những gì trước kia coi là không thể làm được đang xảy ra đây. Về cơ bản, dịch bệnh có thể được quản lý như một vấn đề thuần y tế, như ở Thụy Điển, dịch được các bác sĩ điều trị chứ không phải bị các chính trị gia quản trị. Tuy nhiên, ở Pháp và ở các nước khác, người ta đã biến dịch thành một vấn đề mang tính hiện sinh. Giả thuyết của tôi - mặc dù rất mong manh - có thể là đại dịch này nguyên do từ vấn đề khí hậu. Nhưng điều lý thú là các khả năng biến đổi đã hiển hiện; khiến từ nay chúng ta biết rằng những biến đổi thần tốc, thâm sâu và toàn cầu trong hành vi nhân loại là khả thi, có thể làm được.
Song, việc dừng lại như vậy này chỉ có thể làm được với cái giá phải trả là một khoản nợ khổng lồ. Con đường ấy, khó hình dung trong viễn cảnh của một cuộc giảm tốc lâu dài.
Đúng vậy, và theo nghĩa này, dịch bệnh sẽ không tạo thuận lợi cho quá trình chuyển đổi sinh thái. Đã nghe thấy những tiếng gióng lên rằng việc khẩn cấp là phục hồi tăng trưởng kinh tế, còn việc bảo vệ môi trường không phải là ưu tiên hàng đầu. Chúng ta sẽ phải tính tới điều này.
Về phần anh đã ủng hộ trong nhiều năm cho một cuộc “hạ cánh”, “trở về trái đất”; thậm chí anh đã đặt tên cho tiểu luận năm 2017 “Hạ cánh xuống đâu?”[3] Ý anh muốn nói gì? Kêu gọi giảm tăng trưởng (décroissance) chăng?
Hoàn toàn không! Từ “giảm” mang lại quá nhiều nhầm lẫn, nó giết chết tư tưởng sinh thái học, bởi vì ai muốn giảm đâu? Đây là lý do tại sao tôi đề xuất “đậu xuống đất”. Tôi ủng hộ tăng trưởng và thịnh vượng, nhưng bằng cách trở về với trái đất và phòng giữ khả năng sinh cư của hành tinh này. 
Chúng ta coi là chuyện bình thường khi các nhà nước chúng ta chăm lo sức khỏe chúng ta, nhưng từ nay họ cũng phải chăm sóc tất cả mọi thứ gì cho phép chúng ta tồn tại được sau 4 tỷ năm trên hành tinh này: tính đa dạng của sự sống, những hệ thống cân bằng khí hậu, hệ thống thủy ẩm, v.v.. Quản lý sức khỏe là chính trị sinh học (biopolitique), được phát huy từ thế kỷ 18 và được Michel Foucault phân tích tường tận. Chúng ta phải nghĩ ra một chính trị sinh học thứ hai, phục vụ khả năng sinh cư của hành tinh này, mà chúng ta phải xây dựng ngay từ bây giờ.
Đây phải chăng là việc chính Nhà nước phải làm không? Lúc này, phái hữu cũng như phái tả, đều bàn chuyện trao phó cho Nhà nước một vị trí trung tâm để hồi hương các ngành công nghiệp hoặc đầu tư vào y tế.
Charles de Gaulle (1890-1970)
Những gì bạn đang nói ở đây là sự phục hồi Nhà nước quá khứ, trở lại những năm De Gaulle mà mọi người đều tiếc nhớ. Nhưng điều này không mấy chuẩn bị cho quá trình chuyển đổi sinh thái, bởi vì để cho một Nhà nước hành động, thì công dân phải đứng lên hậu thuẫn. Trong lịch sử, chúng ta chưa từng thấy một Nhà nước nắm bắt được vấn đề và thực hiện các giải pháp mà trước đó chưa được xã hội dân sự cưu mang. Nhà nước chỉ tiến hành những chính sách xã hội khi vô số công đoàn, nhà hoạt động tích cực và nhà trí thức trong thế kỷ 19 đã đề xướng ra vấn đề xã hội. Để trở nên “thân thiện với môi trường”, Nhà nước phải nhận thức rằng xã hội dân sự muốn như thế. Bạn bè của tôi ở các bộ môi trường hoặc y tế đều cho biết các cơ quan của họ quá thiếu thốn thiết bị và nhân sự. Lúc này không thể mong đợi phong trào sinh thái xuất phát từ Nhà nước, nhưng chính xã hội dân sự phải hành động, tham chính.
Ý nghĩa của bảng câu hỏi tôi muốn nói là: để làm chính trị thì cần phải xác định những gì người ta tha thiết. Mỗi cá nhân phải biết rõ những lợi ích, quan tâm của mình, biết đang ở đâu, biết lệ thuộc vào những gì - về ẩm thực, sức khỏe, du lịch, công việc. Khi bạn hỏi mọi người về “những ý kiến” của họ mà thôi, bạn sẽ nhận được những câu trả lời rất trừu tượng dính líu đến mối quan hệ đã qua với Nhà Nước. Còn bảng câu hỏi của tôi nhằm mục tiêu khiến mỗi người tự hỏi mình muốn bỏ đi, giữ lại cái gì và muốn đổi mới cái gì, bắt đầu từ chính cuộc sống của mình. Và cũng vậy - điều này rất quan trọng - tự hỏi mình cụ thể làm điều đó thế nào. Sau đó bắt đầu một công việc điều tra mà mỗi người phải thực hiện, với gia đình, người thân thiết, lân cận. Lấy một ví dụ liên quan đến các hoạt động phải dừng lại: chẳng hạn một câu trả lời thường xuyên là phải hạn chế du lịch “đại chúng”. Được rồi, nhưng chúng ta sẽ làm gì với tất cả người làm công trong lĩnh vực này? Chính nhờ quá trình này mà những người có chung mục đích sẽ lần lần tụ họp nhau và cùng đứng lên hành động. Giống như giai cấp công nhân thế kỷ 19 cùng nhau đứng lên bênh vực những yêu sách xã hội quan trọng; tôi tin rằng chúng ta phải học tập cách hình thành các “giai cấp địa - xã hội”, (classes géo-sociales) có khả năng bênh vực những yêu sách sinh thái quan trọng.
Anh hiểu thế nào là giai cấp địa - xã hội?
Đó là cùng quan tâm đối với các cuộc xung đột hiện nay; điều này không chỉ liên quan đến những bất bình đẳng trong sản xuất mà còn liên quan đến những phương cách chúng ta sử dụng trái đất. Ngày nay, đã có những dư luận bảo vệ​​ sinh thái, có nhng đảng xanh, nhưng chưa có ý thc thuc vào cùng mgiai cấp địa - xã hội. Thế kỷ 19 một công trình khổng lồ điều tra các tác hại của chủ nghĩa tư bản, được thực hiện do những người chiến đấu cho lý tưởng xã hội, tạo điều kiện hình thành vấn đề xã hội và mở đường cho các chính phủ phái tả đầu tiên. Các chiến sĩ môi trường, than ôi, nghĩ rằng họ có thể bỏ qua giai đoạn này. Họ cứ tưởng thiên nhiên bị đe dọa đến mức mà mọi người sẽ tự phát đồng tình hành động. Ồ không!
Anh vẫn liên lạc thường xuyên với Yannick Jadot (lãnh đạo đảng sinh thái) và đã nói chuyện với anh ấy về vấn đề này?
Có, nhưng anh ấy trả lời rằng tôi hay chẻ tóc làm tư. Theo anh ấy, chỉ cần giải bày các vấn đề toàn cầu một cách có sư phạm, thì sẽ thuyết phục được mọi người. Làm chính trị như một phương pháp sư phạm, suốt bốn mươi năm qua, Đảng Xã hội (PS) đã thử làm rồi đó, kết quả thế nào mọi người đều thấy rõ! Theo tôi đó không phải là chính trị. Vâng, sau này các phe đảng sẽ tổng hợp được các quan tâm lợi ích, bây giờ thỉ chưa, còn quá sớm.
Nói cụ thể, làm thế nào thực hiện được một đường lối chính trị sinh thái?
Trong sinh thái học, mỗi chủ đề là một đề tài để tranh luận. Lấy ví dụ các cột tháp điện gió (éoliennes): có bao nhiêu người đồng ý? Có rất nhiều tranh cãi; điều này là bình thường, vì những chủ đề này không nằm trong danh mục những vấn đề chính trị. Chúng ta đang tìm kiếm những giải đáp toàn cầu, nhưng để thoát khỏi tình trạng bế tắc này, chúng ta phải bắt đầu từ mỗi cá nhân, từ mỗi tình huống. Dịch Covid có ít nhất lợi thế cho thấy rằng các biến đổi lớn đều dựa trên sự chuyển dịch từ cá nhân sang cá nhân. Điều này đúng với một dịch bệnh cũng như với việc chuyển đổi sinh thái. Chúng ta có thể thấy điều này trong các câu trả lời đầu tiên cho bảng câu hỏi. Mọi người đều chấp nhận luật chơi, bắt đầu bằng những mô tả cá nhân, họ hơi lúng túng khi phải tả rất thực tế, nhưng dần dần những lời đáp của họ phác dựng nên những thế giới không chút nào là cá nhân chủ nghĩa. Nếu hôm nay, tôi thấy rằng tôi đã nhiễm trùng trùng Covid, điều đó khiến tôi suy nghĩ về mối quan hệ với Trung Quốc. Một sự lệ thuộc đơn giản nhất - lệ thuộc về sức khỏe - làm đảo lộn toàn bộ khái niệm cá nhân: đi từ trường hợp cá nhân của mình và nâng lên thành quy mô toàn cầu, quy mô của nữ thần “Gaïa”[4].
Một khi nhận thức được như vậy, làm thế nào chuyển sang hành động tập thể? Thông qua các chính đảng? Hay bằng cách nào khác?
Greta Thunberg (2003-)
Thì cũng như con virus, lan dần, bằng lây nhiễm, bằng huy động, như trường hợp trong tất cả các phong trào chính trị từ trước tới giờ. Thật khó tin khi chúng ta có hàng chục ứng dụng (applis) để kết nối vào những cuộc gặp gỡ trai gái, hoặc để mua sắm theo nhóm các sản phẩm hữu cơ. Thế mà chúng ta lại không thể kết nối nhau “theo chiều ngang”? Ứng dụng này sẽ cho phép liên kết những công dân theo dõi các vấn đề cùng tranh luận, thay vì dâng sớ “theo hàng dọc” lên cái sinh vật ma thuật là Nhà Nước này để đợi mong mọi thứ; nhưng nó chẳng làm được gì trong lãnh vực này. Phải chăng virus đã cho chúng ta thấy quyền năng hành động theo kiểu vi khuẩn? Phải chăng virus đã hoàn toàn phân phối lại các mối quan hệ giữa những gì là cá nhân, cá thể, tập thể?
Cô Greta Thunberg có chơi trò chính trị theo nghĩa mà anh muốn nói không? Có giúp tạo ra các “giai cấp địa - xã hội” không?
Theo tôi, cô ta có một vai trò tiên tri. Trong chính trị, chúng ta cần tất cả mọi người: tiên tri, kinh tế gia, chính trị gia, đại biểu dân cử, nhà hoạt động. Nhưng chúng ta không thể nào thiếu được một xã hội dân sự luôn tìm kiếm những gì là của chung[3].

Eric Aeschimann và Pascal Riché ghi

2062.TU LUYỆN THÁNG NGÀY-buôn nô lệ kiểu mới thời đại văn minh

 

BUÔN NÔ LỆ KIỂU MỚI TRONG THỜI ĐẠI VĂN MINH

Tác giả: Tôn Thất Thông, tháng 6.2020
Vừa mới giảm hạn chế tiếp xúc, ở Đức đã xảy ra nhiều ổ dịch Covid-19 trong các lò mổ thịt (abattoir) từ nam chí bắc. Trong lúc điều tra, các ký giả chuyên nghiệp phát hiện và đưa ra công luận một sự thực kinh hoàng khác, đáng quan tâm hơn cả Covid-19, ấy là điều kiện làm việc và sinh sống của công nhân mổ thịt, mà tuyệt đại đa số là lao động lương thấp đến từ các xứ nghèo ở Đông Âu. Vào thế kỷ 21, trong một đất nước giàu có bậc nhất châu Âu, mà vẫn tồn tại tình trạng sinh sống thiếu nhân phẩm như thế, nó nói lên điều gì?
Thợ Đông Âu trong các lò mổ thịt
(Nguồn tin lấy từ các báo online hàng ngày đáng tin cậy: Spiegel, Focus, Zeit, Welt, NZZ, Tagesschau, Heute).
Chỉ hai tuần sau khi lệnh giãn cách được nới lỏng, hàng loạt lò mổ thịt ở Đức trở thành những ổ dịch gây chấn động: Thí dụ Westfleisch ở Coesfeld với 250 ca nhiễm, Vion ở Bad Bramstedt với 110, Müller Fleisch ở Birkenfeld với 300, nhiều xí nghiệp thuộc tập đoàn Wiesenhof với 525 ca nhiễm v.v. và chấn động nhất gần đây là công ty Tönnies ở Rheda, ngoại thành Gütersloh với 1553 ca dương tính (ngày 23.6), đấy là chưa kể còn 2000 nhân viên chưa thử xong.
Tönnies là lò mổ thịt lớn nhất của Đức, chiếm 30% công suất sản xuất thịt toàn quốc, mỗi năm mổ hơn 18 triệu con lợn. Tönnies có tổng cộng 6500 nhân viên, đại đa số thợ đến từ Đông Âu, đặc biệt là trong phân đoạn giết lợn, xẻ và phân loại thịt. Những nhóm thợ đông nhất bao gồm 2500 người từ Romania, 1500 từ Ba Lan, 500 từ Bulgaria. Tổng số thợ Đông Âu chiếm hết 80% toàn bộ nhân viên công ty. Khổ thay, họ không phải là nhân viên ăn lương của Tönnies, mà được những công ty môi giới lao động gởi đến làm việc theo thời vụ và theo nhu cầu của Tönnies. Họ làm việc dưới những hợp đồng hết sức tồi tệ với các môi giới lao động. Nhiều người không hề có một hợp đồng nào trong tay.
Trong công ty Tönnies, những người thợ này chịu áp lực của điều kiện làm việc rất khắc nghiệt, nhiệt độ từ 6 đến 10˚C, đứng ngồi san sát, làm việc không ngừng nghỉ để theo kịp dây chuyền sản xuất nhanh, lệnh của công ty môi giới là: không ai được phép nghỉ bệnh. Ít khi họ làm việc dưới 10 giờ trong ngày, có lúc lên đến 15, 16 giờ. Tất nhiên, họ đều ghi vào bảng giờ làm việc, nhưng cuối tháng ít người nhận được tiền phụ trội nào. Tình trạng tồi tệ đó cũng không lạ gì đối với chính quyền. Báo cáo tổng kết năm 2019 của bang NRW “Tổng khảo sát: Lao động công bằng trong ngành thịt” cho chúng ta một bức tranh ảm đạm, thiếu nhân phẩm trong ngành công nghiệp này. 85% các công ty mổ thịt được khảo sát đều bộc lộ tình trạng tồi tệ khắp nơi. [Tải báo cáo ở đây để xem: https://www.dnevnik.bg/file/4033147.pdf].
Nhưng đấy chỉ là bề mặt nổi. Tảng băng chìm chưa ai làm báo cáo mới là bức tranh khủng khiếp hơn. Mặc dù về mặt chính thức, người thợ được hưởng lương tối thiểu theo luật định, nhưng những cáo già môi giới có đủ mánh khóe để qua mặt luật pháp. Ngoài ra, họ đòi thợ Đông Âu đủ mọi thứ chi phí: phí môi giới được trừ vào lương hàng tháng, tiền thuê nhà, phí chuyên chở đến chỗ làm, phí áo quần bảo hộ lao động, và người thợ … phải mua của người môi giới một tấm đệm để có chỗ ngủ. Tất cả đều theo một bảng giá trên trời dưới biển. Thí dụ: mỗi người thợ phải mua tấm đệm hạng bét với giá 300€ (giá thị trường: 100€).
Tồi tệ nhất là tình trạng ăn ngủ của người thợ. Một nữ ký giả đã khóc òa khi vào khảo sát phòng ngủ của 8 người thợ người Romania. Đó là căn phòng 20 mét vuông chỉ có một cửa sổ, với 8 tấm đệm cá nhân xếp san sát bên nhau, diện tích còn lại là đường đi chỉ đủ cho một người. Căn phòng nồng nặc một mùi hôi thối khó biết từ đâu: mùi thịt bám hàng ngày vào áo quần, mùi mồ hôi của 8 con người lao động lực lưỡng, mùi ẩm mốc từ vách tường, mùi thối từ các tấm đệm lâu ngày không được tẩy rửa. Mỗi người thợ phải trả tiền chỗ ngủ như thế cho công ty môi giới lao động 300€ mỗi tháng, tức họ thu được 2400€ tiền thuê mỗi tháng. Để so sánh: với một căn phòng trung lưu trong khu phố trung bình ở Berlin, người thuê trả khoảng 8€ mỗi mét vuông, cộng thêm mọi thứ phụ phí, mỗi tháng cũng chỉ trên dưới 350€ với một căn phòng 20 mét vuông có trang bị vệ sinh đạt tiêu chuẩn.
Trong điều kiện làm việc sinh sống như thế, người thợ mổ thịt nhận lương ròng khoảng 900-1200€ mỗi tháng! Nhưng cũng dễ hiểu, tại sao họ chịu làm việc dưới điều kiện như thế: Đối với một vài nước Đông Âu, như người Romania, họ chỉ cần đi làm “thợ khách” ba tháng là có thể nuôi gia đình một năm. Họ đã bỏ lại gia đình con cái ở quê nhà, sang xứ Đức làm việc cực khổ dưới điều kiện không khác gì nô lệ, làm những công việc mà người bản địa không muốn ngó ngàng tới. Họ bị các môi giới bóc lột tận xương, chỉ vì họ không biết ngôn ngữ và luật lệ địa phương. Ai hưởng lợi trong hệ thống nô lệ hiện đại này?
Chúng ta thử tính sổ xem: Trước hết là người chủ hãng. Họ luôn luôn có thợ lương thấp và không lo lắng gì về đình công bãi thị đòi tăng lương, không bị ràng buộc trong luật sa thải lao động: khi cần thợ thì ra biên giới đón về, khi ít việc thì có thể sa thải qua đêm; Thứ hai, người môi giới lao động. Số tiền chênh lệch giữa lương trả cho thợ và hóa đơn đưa công ty vốn rất cao khó lòng trưởng tượng, nhưng đó chỉ là một phần nhỏ. Tính hết tất cả những phí dịch vụ để “phục vụ” cho thợ ngoại quốc, một người môi giới có thể thu được trên một triệu Euro với không quá 50 người thợ làm theo hợp đồng với các lò mổ. Mạng lưới môi giới này tổ chức không kém Mafia, hoạt động quốc tế đến từng làng quê hẻo lánh nhất của các nước nghèo. Sống với phương tiện hiện đại, nhưng họ vẫn mang trong người bản chất thú vật của người buôn nô lệ thế kỷ 15, 17. Thứ ba, chính quyền sở tại. Qua thợ rẻ tiền, nền kinh tế của Đức được vận hành tốt, bảo đảm GDP tăng lên không ngừng, xuất khẩu được gia tăng, thu được nhiều thuế. Cho nên, mặc dù biết rõ tình trạng tồi tệ trong các lò mổ thịt, họ vẫn làm ngơ, ngày nào tình trạng đó chưa bị phơi bày ra ánh sáng. Và thứ tư, người tiêu thụ đầu cuối như chúng ta cũng tham gia vào vở kịch ấy. Chính nhờ những người thợ Đông Âu, mà chúng ta có được thịt ngon với giá rẻ mạt. Làm sao chúng ta mua được thịt heo hạng nhất với giá 10€ mỗi kí lô, nếu không có những người thợ rẻ tiền từ Đông Âu? Chúng ta đều hưởng lợi trên sự bóc lột lao động và trên điều kiện sống thiếu nhân phẩm của thợ mổ thịt.
Cũng may là Covid-19 đã soi sáng phần nào mặt trái của xã hội chúng ta đang sống.
Ôn lại lịch sử hậu chiến
Về tình trạng tồi tệ thiếu nhân phẩm của thợ ngoại quốc tại Đức, chúng ta đã biết từ giai đoạn phục hưng kinh tế hậu chiến. Thuở đó trong thập niên 1960, Tây Đức còn nghèo, đang trên đường cải thiện cuốc sống vật chất, thu nhập đầu người chỉ mới 5000 DM mỗi năm (bây giờ: 40.000€ hay 80.000 DM). Chính mấy triệu thợ ngoại quốc đã góp phần đáng kể vào việc nâng cao phồn vinh của Tây Đức. Các lãnh đạo chính trị không ngớt lời ca ngợi sự đóng góp của họ vào nền kinh tế, nhưng sau hậu trường, đời sống của họ cũng hết sức tồi tệ thiếu nhân phẩm. Xin trích dẫn vài trang trong cuốn “Thần kỳ kinh tế Tây Đức giai đoạn 1949-1969” để độc giả có hình dung và so sánh với thời hiện đại (xem thêm sách bên dưới, trang 124-140).
Một triệu con người này trong thị trường lao động Đức đã góp phần làm cho nền sản xuất chúng ta tiếp tục đi lên, vật giá chúng ta ổn định và vị trí của chúng ta trên thị trường thế giới được củng cố. Vai trò của những người thợ khách[1] trên thị trường lao động trong những năm tới chắc chắn sẽ còn quan trọng hơn. 
Bộ trưởng lao động Theodor Blank, năm 1964.
Những người thợ ngoại quốc này là ai, nguồn gốc thế nào, đến Đức với động cơ gì? Dorte Huneke tóm tắt như sau về những người thợ ngoại quốc gốc Thổ Nhĩ Kỳ[2]: “Điểm giống nhau là họ có một hộ chiếu Thổ và một hợp đồng lao động. Ngoài ra thì khác nhau nhiều hơn là giống nhau. Họ đủ loại: đàn ông, phụ nữ, người Thổ gốc Kurds, Zirkan, Laze[3], Hy Lạp, Armenia; họ là tín đồ Cơ Đốc, Do Thái, Hồi giáo giòng Shia, Sunni, Alevi; họ là nông dân, ngư dân, người cộng sản, kẻ quốc gia, đủ loại già trẻ. Hầu hết đều thiếu học, nhiều người không biết chữ. Quan trọng nhất là một thân hình vạm vỡ và không bệnh tật. Hàng triệu người nộp đơn xin đi mặc dù chỉ một phần tư được chấp nhận. Họ ra đi để trốn nạn thất nghiệp tại quê nhà, một đất nước nghèo đói về kinh tế, ngột ngạt về chính trị. Có người hy vọng có cơ hội sống cuộc đời độc lập ra khỏi tù túng của truyền thống gia đình, hoặc hy vọng được theo đại học ở châu Âu. Người khác thì đơn giản trốn chạy nghèo đói, áp bức, hay bị truy lùng vì chính trị. […] Người ta nghe đồn đãi rằng ở đó đất đá cũng bằng vàng hoặc những huyền thoại tương tự về Tây Đức. […] Không ai nghĩ rằng họ sẽ sống lâu dài tại đây. Họ đi làm trong xí nghiệp chỉ để kiếm tiền giúp gia đình, hoặc mua sắm máy móc trữ sẵn trong kho đợi ngày về nước. Vui chơi giải trí là chuyện xa xỉ. Nhiều người thấy không cần học tiếng Đức. Thế mà cuối cùng đa số đều ở lại lâu dài, thế hệ này nối tiếp thế hệ khác. […] Đến nay trong đầu thế kỷ 21 thì người gốc Thổ thuộc một trong những nhóm thành đạt nhất trong giới làm phim, bác sĩ, doanh nhân. Họ điều khiển chương trình truyền hình Đức, họ là cầu thủ đội bóng quốc gia, họ thành lập sân khấu kịch nghệ, họ đoạt giải thưởng văn chương, họ thành công trong khoa học, họ đại diện cho nước Đức trong quốc hội châu Âu. Đi tiên phong dọn đường cho những thành đạt đó là thế hệ ‘thợ khách’ của thập niên 1960”.
Trong vòng vài năm sau hiệp ước đầu tiên với Ý, việc tuyển dụng thợ ngoại quốc còn được tiến hành thận trọng để rút kinh nghiệm; vả lại, công đoàn và giới truyền thông cũng thường lên tiếng chống đối. Bước ngoặc trong thị trường lao động Đức năm 1960 làm thay đổi mọi chuyện. Lần đầu tiên sau chiến tranh, số người thất nghiệp (270.000 người) ít hơn số công ăn việc làm đăng ký tại sở tìm việc (645.000). Cũng là lần đầu tiên nạn thất nghiệp xuống dưới 1%.
Đấy là biểu hiện của toàn dụng lao động lần đầu xuất hiện và còn kéo dài suốt một thập niên. Không ai còn nghi ngờ về tình trạng thiếu hụt lao động cần phải lấp đầy để phục vụ kinh tế.
Trước tình trạng đó, mọi cuộc tranh luận nên hay không nên tuyển dụng lao động ngoại quốc trở thành thừa thãi. Quá hiển nhiên là phải có lao động ngoại quốc mới bảo đảm phát triển kinh tế và nâng cao phồn vinh cho dân Đức. Cũng quá hiển nhiên là phải kiếm gấp một số lượng lớn lao động ngoại quốc mới bảo đảm tốc độ phát triển và bù trừ cho những giảm sút lao động nói trên. Nhật báo Thế Giới (Die Welt) viết năm 1964: “Để phát triển và mở rộng nền kinh tế quốc gia, lao động ngoại quốc vô cùng quan trọng - đúng thế, phải nói là họ không thể thiếu được. […] Những ngành mới phát sinh và những ngành phát triển cực nhanh hoàn toàn phụ thuộc vào sự tăng trưởng lao động ngoại quốc, khi mà tính cơ động của lao động bản xứ không đủ cao để đáp ứng nhu cầu[4]”.
Các hiệp hội công nghiệp cũng thừa nhận rằng yếu tố cơ động là ưu điểm tuyệt đối của lao động ngoại quốc. Các hợp đồng lao động đều rất ngắn hạn. Khi hết hạn hợp đồng một năm mà xí nghiệp không cần nữa thì người lao động ngoại quốc phải cuốn gói về quê[5], công đoàn không quan tâm can thiệp. Một thời gian sau, khi sản xuất đòi hỏi thêm hàng ngàn lao động, xí nghiệp có thể có ngay trong vòng một thời gian ngắn, hoặc tuyển dụng lại người thợ cũ đã quen việc. Đối với người thợ Đức được luật lao động bảo vệ, chuyện như thế khó lòng xảy ra. Người lao động ngoại quốc vì thế được xem như một lực lượng lao động trừ bị, đóng vai trò rất quan trọng trong giai đoạn tái cấu trúc kinh tế, giai đoạn mà sự tăng giảm và chuyển dịch lao động xảy ra rất nhanh.
Armando Rodrigues de Sá
Ngày 10.9.1964, người thợ thứ một triệu, Armando Rodrigues de Sá từ Bồ Đào Nha, đến Cologne và đối diện bất ngờ với cuộc đón tiếp long trọng mà có lẽ trong đời anh ta không bao giờ thấy. Quà tặng là chiếc xe gắn máy do thị trưởng thành phố Cologne trao tặng tận tay tại nhà ga khi chiếc tàu vừa cập bến. Cũng trong ngày này, bộ trưởng lao động Theodor Blank phát biểu khá đầy đủ về tầm quan trọng đặc biệt của lao động ngoại quốc trong nền kinh tế hậu chiến CHLB Đức.
Ngoài mối lợi lớn lao về kinh tế mà chúng ta dễ dàng nhận thấy qua các thống kê, còn có những mối lợi phi vật chất cũng vô cùng quan trọng cho chính trị, xã hội và ngoại giao Đức. […] Ngoài ra như Bộ trưởng Theodor Blank phát biểu năm 1964: Việc tuyển dụng lao động ngoại quốc đã làm cho việc hợp nhất châu Âu, sự hòa hợp giữa những con người thuộc nhiều nguồn gốc và văn hóa khác nhau trở thành hiện thực.
Lời ca ngợi sự đóng góp của lao động ngoại quốc thập niên 1960 cho nước Đức không hề thiếu. Chúng ta có thể nghe từ những bài diễn văn của các chính trị gia cao cấp, cả báo chí truyền thông cũng không hề tiếc lời khen. Nhưng để tương xứng với những lời khen ngợi công khai đó, chính phủ đương thời không có nỗ lực đầy đủ để hỗ trợ những người mới đến, giúp họ tránh được những thua thiệt trong nghề nghiệp và xã hội, nhất là giúp họ có một cuộc sống đầy đủ nhân phẩm trong một quốc gia văn minh.
Cựu Thủ tướng Helmut Schmidt trả lời trong cuộc phỏng vấn năm 2011: “Người Đức không nhận thức hết những khó khăn nào để hòa nhập người ngoại quốc. Chúng ta không hề có một một hỗ trợ nào cho sự hòa nhập ấy. Cho đến bây giờ cũng thế. Vì thế tôi tự phê phán mình. Và phê phán những người khác. Chúng ta không làm tốt việc ấy. […] Ở trên cùng các cấp bậc chính trị vẫn còn thiếu ý thức và kiến thức về vấn đề này[6]”. Trở lại những thua thiệt của lao động ngoại quốc thời hậu chiến, chúng ta có thể nêu lên vài thí dụ:

1) Về điều kiện làm việc: Chúng ta không ngạc nhiên khi thấy các nghiên cứu về thị trường lao động đều có chung một kết luận: Đa số thợ ngoại quốc trong những năm cuối thập niên 1960 đều làm việc ở những vị trí thấp trong các lĩnh vực nặng nhọc nhất[7] như hầm mỏ, kỹ nghệ nặng, lắp ráp dây chuyền, xây dựng hoặc… hốt rác thành phố. Lý do được cắt nghĩa như sau[8]: Tình hình phát triển kinh tế mạnh mẽ trong những năm cuối thập niên 1950 đưa đến hậu quả là tình trạng toàn dụng lao động dần dần đạt mức tối ưu[9]. Tình trạng đó cho phép người đi làm có nhiều khả năng chọn lựa về ngành nghề, nơi làm việc cũng như lương tiền. Trong lúc thợ ngoại quốc bị ràng buộc bởi giấy phép lao động [ở một thành phố nhất định, có lúc chỉ trong một xí nghiệp nhất định], thì người Đức hưởng nhiều lợi thế hơn, họ có thể chọn lựa chỗ làm tốt hơn, ngành nghề nhẹ nhàng hơn, hoặc đã thăng tiến lên những vị trí cao hơn. Vì thế trong những năm đầu mới đến, lao động ngoại quốc làm việc tương đối cực nhọc, phải làm những công việc ở tầng thấp nhất trong công nghiệp mà người Đức không thích đảm nhận.
2) Công đoàn: Sự đối xử bất công với thợ ngoại quốc cũng nói lên mặt trái của các công đoàn. Mặc dù công đoàn vốn từ lâu có truyền thống đoàn kết với công nhân bị áp bức, nhưng trong lĩnh vực này thì truyền thống đoàn kết ấy dường như không vượt qua khỏi ranh giới chủng tộc. Qua cuộc đình công tháng 8.1973 tại hãng FORD ở Cologne “một vấn đề lớn bộc lộ rõ là, theo nhận xét của nhiều thợ Thổ Nhĩ Kỳ thì quyền lợi của họ đối với xí nghiệp không được hội đồng công nhân viên bảo vệ đúng mức, mặc dù 90% thợ Thổ Nhĩ Kỳ đều là thành viên của công đoàn[10]. Điều này xuất phát từ thực tế là đơn xin gia nhập công đoàn luôn luôn được kèm theo hợp đồng lao động. Người thợ chỉ việc ký cho xong chuyện. […] Sau khi luật bầu cử hội đồng công nhân viên được ban hành năm 1972, thợ ngoại quốc có quyền ứng cử, nhưng thực tế là 98% thành phần hội đồng đều là người Đức. Có trường hợp một ứng viên người Thổ ở hãng FORD được bầu với 31% số phiếu, cuối cùng cũng không được công nhận”[11].
3) Nhà ở: Đây là vết nhơ tồi tệ nhất trong việc đối xử với thợ ngoại quốc. Trong hợp đồng tuyển dụng có ghi rõ giới chủ nhân phải giải quyết chỗ ở đàng hoàng cho thợ khách, nhưng không quy định rõ rệt chất lượng cho nên các thợ khách phải sống trong những điều kiện hết sức tồi tệ. Hầm tránh bom thời chiến không phải là ngoại lệ, doanh trại quân đội Quốc Xã để lại đã là cao cấp lắm, bên trong nội thất thì hầu như không có gì. Nhiều người phải ra thuê nhà ở ngoài sau một thời gian.
Nhà tư nhân cho thuê thì thế nào? Chúng ta hãy đọc nhật báo Thương Mại (Handelsblatt) tháng 2.1967 về một cuộc khám xét[12]: “Trong một căn phòng chưa tới 15 mét vuông có sáu thợ khách người Thổ và Hy Lạp. Giường chồng kê sát nhau không đủ lối đi. Ở giữa phòng, bên dưới bóng đèn treo lủng lẳng là chiếc bàn được che phủ bởi những tờ nhật báo thay cho khăn trải bàn. Thật vô ích để đi tìm một tấm màn che cửa sổ, nói gì tới một bức tranh treo tường. […] Kiếm không ra chữ để diễn tả phòng vệ sinh. […] Ở một căn nhà khác: Ngay cả trong hầm nhà cũng có sáu người Bắc Phi trong một căn phòng bé tí. Phòng vệ sinh thì bẩn thỉu và hẹp đến độ không quay người được. […] Mỗi phòng loại đó, chủ nhà đòi 480 DM[13].
Các chủ nhà tư nhân thu tiền thợ khách gấp mười giá thị trường với điều kiện sống rất thiếu nhân phẩm. Họ đã làm giàu bằng cách lợi dụng hoàn cảnh khó khăn của người thợ khách. Tất nhiên đó chỉ là số rất ít, nhưng sự tồn tại loại người đó trong một xã hội văn minh nói lên điều gì?
Thợ ngoại quốc thì sống như thế, trong lúc CHLB Đức đã xây dựng một chương trình chung cư xã hội tuyệt vời, đã ban hành đạo luật nhà thuê thật ngặt nghèo để bảo vệ người đi thuê. Nhưng họ thả lỏng cho giới chủ nhân tiết kiệm tiền trên nhân phẩm người thợ. Họ thả lỏng cho giới chủ nhà tham lam đối xử với các thợ khách không bằng gia súc. Trên quê hương của Kant, của Max Weber, của Dahrendorf, những bộ óc tuyệt vời luôn luôn lấy nhân phẩm con người làm trung tâm điểm cho mọi tư tưởng, thế mà chính phủ có thể làm ngơ trước điều kiện sống tồi tệ của những người thợ khách đã có công tạo thêm phồn vinh cho xã hội. Đấy có phải là vết nhơ lịch sử mà giới lãnh đạo cao cấp thời đó phải nhận lãnh trách nhiệm? Có phải Thủ tướng Angela Merkel muốn rửa sạch vết nhơ đó khi gần đây mở cửa biên giới đón một triệu người nhập cư? Chỉ Angela Merkel mới có thể trả lời câu hỏi đó. [Chấm dứt đoạn trích dẫn sách].
Hậu chiến và hậu Covid: có gì khác nhau?
Giữa thợ Thổ Nhĩ Kỳ thập niên 1960 và thợ Đông Âu thế kỷ 21, điều kiện sinh sống đều tồi tệ và thiếu nhân phẩm không khác nhau. Tuy nhiên, Tây Đức thuở đó còn khó khăn, mọi người đều phải vật lộn với miếng cơm manh áo, có mấy ai quan tâm đến điều kiện sinh sống của những người “thợ khách”? Nhưng trong thế kỷ 21 hiện đại này, tri thức và đạo đức con người đã tăng lên vượt bực, thế mà vẫn còn kiếp sống nô lệ đằng sau hậu trường xã hội, đó chẳng phải là một sự sỉ nhục cho lương tâm loài người hay sao?
Xin cám ơn Covid. Nếu không có những ổ dịch trong các lò mổ thịt, có lẽ hiếm có ký giả nào chịu khó khảo sát một vấn đề ít người quan tâm. Nhưng nhờ lương tâm nghề nghiệp của các ký giả có lòng, họ đã đánh thức lương tâm người tiêu thụ Đức trước điều kiện sống tồi tệ của người thợ Đông Âu. Nếu những nhóm Mafia môi giới lao động vẫn giữ tính tàn bạo không kém người buôn nô lệ thế kỷ 17, thì người dân Đức dường như được thức tỉnh ít nhiều. Trên TV người ta ghi nhận một ý thức mới trong giới tiêu thụ. Họ sẵn sàng mua thịt với giá cao hơn, nếu qua đó, lương tiền thợ mổ thịt được nâng cao và súc vật được nuôi và xử lý nhân đạo hơn, tức là một loại thuế trên giá mua thịt. Chút ít như thế vẫn còn hơn không. Ít ra, bằng con đường phản đối ôn hòa, họ đã gây được sức ép lên giới lãnh đạo chính trị.
Sức ép từ người dân đã có tác dụng với tin vui hôm nay: chính phủ Đức sẽ bàn thảo để đưa ra đạo luật cải cách ngành mổ thịt. Chúng ta hãy chờ xem điều gì sẽ được thông qua, nhưng ít nhất là vài chuyện đã rõ ràng: Chính phủ sẽ cấm môi giới lao động làm mướn, các lò mổ thịt phải thu nhận nhân viên trực tiếp, chịu mọi ràng buộc của luật lao động hiện hành và bảo hiểm xã hội; tiền lương tối thiểu sẽ tăng lên; công ty mổ thịt phải chịu trách nhiệm về sức khỏe và điều kiện sinh sống của thợ ngoại quốc.
Hy vọng rằng, kiếp sống nô lệ cuối cùng sẽ từ từ biến mất trên đất nước này. Thật nực cười, con vi-rút Covid nhỏ xíu cũng lay chuyển được một bộ máy hành chính rườm rà, cải thiện được tình trạng tồi tệ vốn dĩ vẫn tồn tại hơn nửa thế kỷ nay.
Hy vọng xã hội hậu Covid sẽ không còn giống xã hội trước đây vài tháng.
Tôn Thất Thông, tháng 6.2020

🐲KINGLONG WONMAN ĐĂNG - CAO TỔ CỦA NHỮNG VỊ VUA

  2019 thuê nhạc sĩ  phổ nhạc bài này làm hiệu doanh nghiệp, làm nhạc chờ công ty, giờ có rồi, nên lưu lại ở đây làm kỹ niệm  ĐĂNG CHO VAY -...