CHUYỂN ĐỔI NGÔN NGỮ BLOG

Chủ Nhật, 12 tháng 12, 2021

2293.

 CƠ ĐỘNG VÀ TINH GỌN 


Ảnh: một pháo tự PTH105 thuộc biên chế binh chủng pháo binh, lục quân Việt Nam trong một cuộc diễn tập. PTH105 là loại pháo tự hành mới do Việt Nam tự nghiên cứu phát triển và sản xuất trên cơ sở kết hợp lựu pháo xe kéo M101/102 cỡ nòng 105 li do Mỹ sản xuất (thu được sau chiến tranh Việt Nam) và khung gầm xe tải bánh xích Ural-375D. Sự kết hợp trên đã đem đến một khí tài hoàn toàn mới, có năng lực chiến đấu vượt trội so với những trang bị khác trong biên chế pháo binh. 


Với pháo chính M101 đạt tầm bắn 11 km và tốc độ bắn trung bình đạt 5 phát/phút, PTH105 có thể dội hỏa lực chế áp mạnh mẽ lên đầu bộ binh hay đội hình cơ giới của đối phương, đồng thời tham gia yểm trợ hỏa lực bộ binh một cách hiệu quả trên chiến trường. Nhờ việc được triển khai trên khung gầm xe tải hạng nặng, pháo có thời gian triển khai chiến đấu và thu hồi trận địa ngắn hơn nhiều so với các loại lựu pháo xe kéo, tăng đáng kể năng lực tác chiến và khả năng sống sót trên chiến trường. Khả năng bắn và di chuyển, thay đổi trận địa nhanh chóng của PTH105 cũng cho phép nó chống trinh sát và phản pháo của đối phương một cách hiệu quả. Bên cạnh pháo chính, tổ hợp cũng được trang bị một súng máy 12,7 li để phòng vệ tầm gần. Hai bên thành xe pháo được trang bị hai tấm giáp bảo vệ, có thể được nâng hạ theo yêu cầu. Xe cũng được trang bị 4 trụ thủy lực để tăng cường độ cân bằng của tổ hợp khi tác xạ. Mỗi xe PTH105 đều có khả năng mang theo đạn dự trữ dù không nhiều.  


Để tăng cường độ chính xác, PTH105 cũng được trang bị máy tính tính toán phần tử bắn. Bên cạnh đó, xe cũng được trang bị hệ thống điện đàm quân sự riêng, giúp đảm bảo dây chuyền mệnh lệnh và việc chỉ huy tác chiến với các thành tố chiến đấu được đặt cách xa nhau. 


Việc sử dụng khung gầm xe tải hạng nặng Ural-375D cũng giúp tổ hợp có thể cơ động và triển khai dễ dàng tại những khu vực địa hình phức tạp như đồi núi, đô thị đồng thời cũng tăng khả năng ngụy trang khi các xe pháo PTH105 có thể ngụy trang thành xe tải thông thường và ẩn lẫn vào địa hình, cũng như trú ẩn trong các toà nhà hay hố ngụy trang được xây dựng chặt chẽ. 


Hiện Việt Nam đang tiếp tục phát triển mạnh mẽ pháo tự hành và nhiều mẫu pháo tự hành khác như PTH85, PTH105 trên khung gầm thiết giáp hay PTH130 đang được tích cực phát triển và đưa vào biên chế pháo binh Việt Nam.   

 

Cras.

2292.

 DÂN DU MỤC VÀ CHIẾN TRANH PHI QUÁN TÍNH

Sưu tầm 

Tranh vẽ: Một chiến binh du mục* trong trang phục thường ngày của mình. Vũ khí chủ lực của anh ta là cung tên với bộ mũi tên đa dụng được thiết kế đặc thù cho chiến tranh cung tiễn. Thanh gươm cong đặc trưng của thảo nguyên là vũ khí cận chiến chủ lực của anh.


Sống trong môi trường thảo nguyên khắc nghiệt, tách biệt với thế giới đô hội văn minh, dân du mục thảo nguyên là những kẻ phi truyền thống. Tuân thủ theo quy luật hà khắc của tự nhiên, thực dựng và khắc nghiệt, người du mục tận dụng mọi thứ họ có thể và tối giản trang bị của họ đến mức tối đa. Tối giản hóa mọi thứ mình có cho sinh tồn nhưng phải duy trì sức mạnh chiến đấu - sinh tồn của mình đến tối đa, dân du mục đã dần phát triển công nghệ và tư duy của mình theo cách khác biệt với các sắc dân văn minh: khoa học, thực dụng, tối giản và hiệu quả đến tàn bạo.


Sinh trưởng trong môi trường nghèo tài nguyên, với nguồn lợi dồi dào nhất là các loài thú hoang dã, dân du mục lớn lên từ việc săn bắt và thuần hóa thú hoang. Ở môi trường này, cung tên là vũ khí hoàn hảo. Có thể bắn hạ con mồi từ hơn 200 m**, với khả năng hạ con mồi bằng một phát bắn chính xác duy nhất (vào nội tạng trọng yếu của con mồi), một kỵ sĩ Mông Cổ với cung tên trên tay là kẻ săn mồi tối thượng của thảo nguyên. 


Lối sống hoang dã khắc nghiệt, sức mạnh đặc thù của cung tên, cộng với điều kiện tự nhiên nghèo nàn với tài nguyên ít ỏi đã khiến người du mục bám chặt vào lối tư duy chiến tranh cung thuật của họ. Thảo nguyên xưa kia là vùng đất khắc nghiệt nghèo tài nguyên. Trong khi da thú, da thuộc gia súc là những nguồn nguyên liệu khả dĩ nhất cho sản xuất quần áo, người Mông Cổ có rất ít nguồn quặng sắt có thể khai thác được. Những mỏ sắt duy nhất có thể khai thác (thủ công) được của thảo nguyên Mông Cổ xa xưa nằm ở dãy núi Altai, nơi các bộ tộc cạnh tranh nhau khốc liệt để có được quyền khai thác sắt. Số lượng sắt ít ỏi mà dân du mục có thể khai thác được đều được tập trung sản xuất những công cụ thiết yếu nhất, trong đó đầu mũi tên là sản phẩm được đặc biệt chú trọng do sự quan trọng của nó với lối sống của người Mông Cổ. Tiến hóa lên theo lối tư duy này, người du mục đã tập trung vào phát triển thiết kế mũi tên và kỹ thuật cung của mình, tối ưu hóa sức mạnh truyền thống của thảo nguyên chứ không đi vào phát triển giáp sĩ như các sắc dân định cư đương thời***. 


Cung tên và lưng ngựa làm chủ đạo, kỵ sĩ Mông Cổ thường mặc giáp vải dày may từ lông cừu hay da thú. Nhẹ, giữ ấm tốt, dễ sử dụng liên tục, được thiết kế đặc biệt để bảo vệ khỏi cung tên, bền và dễ sản xuất từ các nguồn nguyên liệu sẵn có, áo giáp da - vải lông cừu là người bạn tin cậy của một kỵ sĩ du mục. Những chiếc áo lông cừu đan theo lối thảo nguyên đặc trưng với các lớp vải dày đan lồng vào nhau là loại áo giáp đặc biệt cho chiến tranh cung tiễn. Một mũi tên cắm vào lớp áo này có thể bị chặn lại bởi lớp vải dày đan vào nhau và có thể được rút ra dễ dàng bởi kỵ sĩ. Giáp vải dày của dân du mục giúp các chiến binh của họ vận động nhịp nhàng - dễ dàng và có thể thực hiện những cử động phức tạp (quay ngược người về sau và bắn tên) mà những loại giáp nặng của các sắc dân khác không cho phép. Sử dụng loại giáp đặc biệt này, kỵ binh du mục có thể thoải mái khai triển lối chiến tranh cung tiễn tầm xa của mình mà không gặp bất kỳ hạn chế nào trên chiến địa.


Giáp trận trên lưng ngựa với trang bị gọn nhẹ và cung tên đặc thù, người du mục dựa vào kỹ - chiến thuật chiến đấu của mình (phát triển lên sau hàng thế kỷ chiến tranh) để thủ thắng. Có thể giao tranh trong các khối quân nhỏ của các thị tộc chỉ vài chục người choi đến hàng trăm người, cũng có thể tập hợp lại trong những đội quân hàng ngàn cho đến hàng vạn lính tinh nhuệ đối đầu nhau trong những đội quân du mục toàn là kỵ binh, người du mục tuân theo một lối khoa học chiến tranh tự nhiên phi quán tính nằm ngoài khuôn khổ tư duy quân sự của các nền văn minh khác. Trong khi dân định cư lấy nền tảng bộ binh làm gốc thường thiết lập trận thế theo bài bản của mình (với các khối quân - sắc lính khác nhau), các khối kỵ binh Mông Cổ được thiết lập theo tư duy của chỉ huy dựa theo thực tế chiến trường và chiến đấu hoàn toàn theo khoa học chiến tranh của họ. Uyển chuyển, linh hoạt, dễ dàng phân tách - tập hợp, thay đổi - thích ứng và lấy đấu tên, giao tranh chớp nhoáng với kiếm cong làm trọng, dân du mục là hình mẫu kinh điển của chiến tranh phi đối xứng và phi quán tính trong lịch sử chiến tranh. Nỗi kinh hoàng mà họ đã đem đến cho các sắc dân định cư, các nền văn minh khác là ví dụ kinh điển cho sức mạnh của tư duy chiến tranh du mục phi quán tính. 


Sau khi Thành Cát Tư Hãn thống nhất các sắn dân du mục và thành lập Đế Chế Mông Cổ, đem sức mạnh của người du mục đi khắp thế giới, thế giới Trung Cổ bảo thủ sẽ lần đầu tiên chao đảo trước tư duy phi quán tính và khoa học thực dụng của người Mông. Khoa học, thực dụng, tối giản và hiệu quả đến tàn bạo, tư duy du mục của thảo nguyên có lẽ sẽ còn gây ảnh hưởng lên thế giới đến nhiều thế kỷ sau. 


*: Trên thảo nguyên hoang dã, có rất nhiều bộ lạc du mục khác nhau. Trong khi ngày nay danh xưng Mông Cổ được dùng để chỉ chung các sắc dân du mục đến từ thảo nguyên phương Bắc, các bộ tộc ở xa xưa ở đây rất đa dạng. Ví dụ điển hình nhất là các sắc dân du mục phía Bắc thảo nguyên tại vùng Siberia, vốn được coi là người Mông Cổ nhưng lại có huyết thống khác biệt với người Mông. Một ví dụ khác nữa là các bộ tộc du mục thảo nguyên gốc Hung - Kazak vốn có số lượng đông đảo và từng tồn tại với tư cách các bộ lạc - thị tộc độc lập trên thảo nguyên cho đến khi Thành Cát Tư Hãn kiến lập Đế Chế Mông Cổ. Các bộ lạc này sẽ để lại ảnh hưởng lớn lên khu vực Trung Đông và hình thành nền văn hóa đặc trưng của mình. 

**: khoảng cách bắn cung của Mông Cổ được tính bằng cung (bow), vối mỗi cung tương đương 1 m, hay 1,1 m. Trong khi kỵ binh Mông Cổ trên chiến trường có lối tấn công áp sát đặc trưng (có thể áp sát đến 50 - 100 m), một kỵ sĩ Mông Cổ có thể khai tiễn hiệu quả tư cách xa 200 m. Cung Mông Cổ có tầm bắn lý thuyết lên đến 500 m về mặt kỹ thuật. 

***: các sắc dân định cư như người Hán ở đồng Trung Nguyên sẽ đánh trọng vào tư duy bộ binh và các kỹ thuật của nó do đặc trưng sống quần cư của mình. Giáp sĩ (lính giáp nặng) của người Trung Hoa có thể coi là sự phát triển kỹ thuật trực tiếp của tư duy dân định cư. 


Cras.

🐲KINGLONG WONMAN ĐĂNG - CAO TỔ CỦA NHỮNG VỊ VUA

  2019 thuê nhạc sĩ  phổ nhạc bài này làm hiệu doanh nghiệp, làm nhạc chờ công ty, giờ có rồi, nên lưu lại ở đây làm kỹ niệm  ĐĂNG CHO VAY -...