CHUYỂN ĐỔI NGÔN NGỮ BLOG

Thứ Sáu, 6 tháng 8, 2021

2185.KỴ BINH TRONG CHIẾN TRANH HIỆN ĐẠI.

GIA CÁT LUẬT 0921888868 sưu tầm 


Trong lịch sử chiến tranh, kỵ binh là một trong những binh chủng có thời gian phục vụ lâu đời nhất. Trong giai đoạn đầu đến giữa chiến tranh Trung Cổ, kỵ binh đã đóng vai trò chủ lực trong quân đội. 
Kể từ cuối giai đoạn Trung Cổ cho đến giai đoạn cận đại, kỵ binh đã chuyển sang đảm nhận nhiệm vụ xung kích, đột phá đội hình - trận tuyến đối phương bên cạnh nhiệm vụ trinh sát. Khi công nghệ thông tin còn chưa phát triển, kỵ binh chính là tai mắt của một đội quân.

Khi thế kỷ 20 bắt đầu, kỵ binh vẫn còn vai trò rất quan trọng trong chiến tranh. Bên cạnh vai trò truyền thống như trước kia, nhiệm vụ hậu cần và liên lạc cũng là một nhiệm vụ quan trọng của các đơn vị kỵ binh. Do sự phát triển của chiến tranh hiện đại, các lực lượng kỵ binh thực hiện nhiệm vụ chiến đấu đã dần mất chỗ đứng.

Tuy vậy, kỵ binh vẫn là một lực lượng quân sự hữu dụng cho đến những năm 60 của thế kỷ 20. 

Trong đại chiến thế giới thứ 2, trái với hình ảnh cơ giới hoá toàn diện của quân đội Đức trong văn hoá đại chúng, 80% việc vận chuyển hậu cần của quân đội Đức được thực hiện bởi ngựa trong giai đoạn 1939-1942. Cùng lúc đó Ba Lan, Liên Xô và các nước Đông Âu cũng tiến hành phát triển các đơn vị kỵ binh chủ lực của mình. 

Lý do cho việc này khá rõ ràng. Việc cơ giới hoá tốn một chi phí lớn và không thể được thực hiện toàn diện. Việc cung cấp hậu cần và bảo đảm khả năng hoạt động của các đơn vị kỵ binh tốn chi phí thấp và cũng đơn giản hơn các đơn vị cơ giới.

Bên cạnh đó, địa hình châu Âu với các khu vực rừng và đồi núi tại Tây Âu, đặc biệt là khu vực biên giới Bỉ - Đức - Pháp khiến việc sử dụng kỵ binh cho nhiệm vụ trinh sát và liên lạc hiệu quả hơn việc sử dụng phương tiện cơ giới. Tại khu vực Đông Âu, đồng bằng mênh mông với dân cư thưa thớt đã khiến việc sử dụng ngựa cho mục đích quân sự trở nên quan trọng. Ở thời điểm các phương tiện cơ giới quân sự vẫn còn bị hạn chế về kỹ thuật và vấn đề tiếp vận khá phức tạp, kỵ binh đã trở thành một giải pháp đơn giản và thực tế. 

Các đơn vị kỵ binh có thể tìm kiếm nguồn tiếp tế ngay tại khu vực hành quân. Bên cạnh đó, ngựa cũng có khả năng vượt các khu vực địa hình chia cắt (đặc biệt là địa hình rừng rậm, gập ghềnh và các khu vực bùn lầy). Những đặc tính này khiến kỵ binh trở nên cần thiết trong suốt giai đoạn thế chiến thứ II, đặc biệt là tại mặt trận phía Đông. 

Một số quốc gia sau khá nổi bật về sử dụng kỵ binh trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ 20:

I) Quân đội Đức:

Trong giai đoạn thế chiến thứ I, kỵ binh Đức là con cưng của Kaiser Wilhelm II. Lực lượng kỵ binh Dragoons là một phần trọng yếu trong quân đội Đức. 

Các đơn vị kỵ binh có trang bị căn bản là súng Carbine kỵ binh, trường thương và kiếm cong kỵ binh (cavalry sabre ). Chúng được phối thuộc rất chắc chắn với các lực lượng bộ binh chủ lực và các đơn vị pháo binh. 

Nhiệm vụ căn bản của lực lượng này là trinh sát, tấn công phủ đầu, chống lại kỵ binh đối phương và chiến đấu phối thuộc với các binh chủng khác. Những chiến thuật này có nhiều điểm tương đồng với các lực lượng kỵ binh khác tại châu Âu. Tuy vậy, tư duy chiến lược sử dụng kỵ binh trong tác chiến hiệp đồng cho phép kỵ binh Đức có hiệu quả cao hơn đồng thời giảm thiểu được thương vong đáng kể so với kỵ binh Pháp hay Nga. 

Giai đoạn Thế chiến thứ II đã cho thấy sự hiện đại hoá của kỵ binh Đức.
Các sư đoàn bộ binh chủ lực của Đức sử dụng kỵ binh cho nhiệm vụ trinh sát và liên lạc. Trong suốt giai đoạn 1939-1942, việc vận chuyển hậu cận bên cạnh vận chuyển pháo binh được thực hiện chủ yếu bởi ngựa. 
Do mỗi sư đoàn của Đức là một đội quân độc lập, kỵ binh giải quyết được bài toán liên lạc giữa các sư đoàn mà không cần tuyến thông tin, đặc biệt là trên một trận tuyến dài ở cự ly lớn bên cạnh việc duy trì tiếp liệu và vận tải cho các đơn vị độc lập.

Trong cuộc xâm lược Liên Xô, ngựa đã trở nên đặc biệt quan trọng do điều kiện thời tiết mùa đông tạo bùn lầy khắc nghiệt trên thảo nguyên Đông Âu. Sau khi xâm lược Liên Xô năm 1941, người Đức đã thiết lập các đơn vị kỵ binh Cossack để chống lại quân đội Sô Viết. 
Để chống lại các hoạt động của kỵ binh Liên Xô và các đơn vị dân quân du kích, người Đức cũng sử dụng kỵ binh cho nhiệm vụ tuần tra và bảo vệ các khu vực đóng quân.

Các đơn vị kỵ binh chiến đấu của Đức vẫn được trang bị kiếm cong kỵ binh, tuy vậy súng và lựu đạn đã trở thành trang bị chủ lực của một kỵ sĩ. Kỵ binh Đức trong Thế chiến thứ II được huấn luyện những kỹ năng chiến đấu bằng hai loại vũ khí trên trên lưng ngựa khá đặc biệt.

Kỵ binh Đức chủ yếu sử dụng ngựa để di chuyển và chiến đấu như bộ binh. Trong một số trường hợp các lực lượng này vẫn cận chiến trên lưng ngựa bằng trường thương và kiếm cong kỵ binh bên cạnh lựu đạn.

Trước sự cần thiết của kỵ binh trong cuộc xâm lược Liên Xô, người Đức đã tuyển mộ các đơn vị kỵ binh Cosack. Các đơn vị kỵ binh Cosack được  thành lập tại Đông Âu sau năm 1941 là các đơn vị thực hiện nhiệm vụ chiến đấu chủ lực trong lực lượng kỵ binh của Đức. 

Kỵ binh Cossack nổi tiếng về độ hung tợn và kỹ năng chiến đấu trên lưng ngựa của mình. Khả năng di chuyển và sinh tồn trên đồng bằng Đông Âu của người Cossack cũng vượt trội so với nhiều giống dân khác. 

II) Đế chế Nga:

Trước khi sụp đổ năm 1917, các đơn vị kỵ binh Cossack là niềm tự hào của quân đội Nga. Đây là lực lượng tinh nhuệ đóng vai trò xung kích trong những cuộc tấn công của quân đội Nga.

Kể từ thời của Sa Hoàng Ivan IV - Ivan Bạo chúa, Nga đã luôn có một lực lượng kỵ binh đáng sợ tại châu Âu. Các đơn vị kỵ binh Cosack đã gây ra nỗi khiếp sợ tại Đông Âu và để lại ảnh hưởng mạnh mẽ trong tâm lý của cư dân tại đây cho đến các thế kỷ sau.

Kỵ binh Nga trong giai đoạn thế kỷ 19 cho đến đầu thế kỷ 20 được trang bị khá tốt cho chiến tranh kỵ binh. Trang bị bao gồm súng carbine kỵ binh. Những khẩu súng này có tốc độ bắn nhanh hơn cũng như trọng lượng nhẹ hơn những khẩu súng khác. Vũ khí chính của họ vẫn là trường thương và kiếm cong. Chiến thuật chính của kỵ binh Nga là bắn chế áp từ xa trước khi xung phong đồng loạt trong những đội hình hàng ngang với trường thương. Kiếm cong được sử dụng để cận chiến. Những đơn vị kỵ binh này rất nguy hiểm trên chiến trường.  

Cuộc tấn công của tướng Brusilov, chiến thắng lớn nhất của Nga trong Thế chiến thứ I đã chứng kiến các đơn vị kỵ binh nặng đặc biệt tiến hành đột phá qua cửa mở đã được tạo bởi bộ binh và pháo binh. Các đơn vị này sau đó sẽ tiến hành bao vây - cô lập và tiêu diệt các vị trí phòng thủ cũng như hậu tuyến của kẻ thù. 
Bên cạnh đó, chúng cũng ngăn chặn quân tiếp viện của đối phương và tiêu diệt kẻ địch rút lui. 

Sau cách mạng tháng Mười năm 1917, cuộc nội chiến Nga bùng nổ. Kỵ binh là lực lượng nòng cốt trên chiến trường nước Nga.

III) Quân đội Liên Xô:

Liên Xô có một học thuyết tác chiến kỵ binh khá đồ sộ và chắc chắn. Dù ít được nhắc đến, kỵ binh Sô Viết đã hoạt động cho đến khi cuộc chiến kết thúc năm 1945. 

Khác với người Đức sử dụng kỵ binh cho nhiệm vụ yểm trợ, quân đội Sô Viết sử dụng kỵ binh cho nhiệm vụ chiến đấu trên diện rộng. Các đơn vị kỵ binh độc lập đã được thiết lập với số lượng lớn. Các đơn vị này thường hoạt động quấy rối sau trận tuyến của địch. Nhờ khả năng tự chủ về tiếp tế trên thảo nguyên Đông Âu, các đơn vị kỵ binh độc lập thường xâm nhập vào vùng địch và hoạt động quấy rối các tuyến tiếp tế, thông tin và các đơn vị ở tuyến sau của đối phương.

Trong giai đoạn chiến tranh, các đơn vị kỵ binh độc lập là một thành tố quan trọng trong chiến tranh du kích sau lưng địch của Liên Xô. Nhờ khả năng hoạt động độc lập và không phụ thuộc vào một tuyến hậu cần hay thông tin nào, các trung đoàn kỵ binh Sô Viết tạo thành những lực lượng đột kích đặc biệt và rất khó đối phó trong thực chiến. 

Kỵ binh Sô Viết thường di chuyển bằng ngựa và chiến đấu như bộ binh. Tuy vậy, chiến thuật xung phong và cận chiến bằng trường thương và kiếm cong vẫn là chiến thuật căn bản, đặc biệt là khi chống lại các đơn vị bộ binh. 
Trong học thuyết chiến tranh thế giới thứ II của Liên Xô, kỵ binh là một thành tố trong tác chiến hiệp đồng binh chủng.

IV) Ba Lan:

Ba Lan là quốc gia có truyền thống kỵ binh nổi tiếng tại châu Âu. Trong giai đoạn thế chiến, Ba Lan là một trong những quốc gia phát triển kỵ binh mạnh mẽ nhất. 

Các lữ đoàn kỵ binh độc lập của Ba Lan là một thành phần trọng yếu của quân đội nước này. Ba Lan đã có kinh nghiệm tác chiến kỵ binh đáng nể trong suốt giai đoạn 1919 cho đến khi kết thúc chiến tranh Liên Xô - Ba Lan lần 1. Kỵ binh Ba Lan đã có những trận đánh kỵ binh lớn với kỵ binh Sô Viết bên cạnh những trận đánh hiệp đồng quan trọng. 

Kỵ binh Ba Lan có cách tổ chức và tác chiến đặc trưng. Các lữ đoàn kỵ binh là các đơn vị cơ động độc lập. Trước cuộc xâm lược của Đức năm 1939 chúng đã được duy trì như những đơn vị dự bị chủ lực. 
Bên cạnh lực lượng chính, các lữ đoàn này còn có các đơn vị súng cối và pháo bắn thẳng. Khi tác chiến kỵ binh Ba Lan thường xuống ngựa và chiến đấu như bộ binh. Tuy vậy họ có thể đổi vị trí chiến đấu rất nhanh hoặc xung phong cận chiến từ trên lưng ngựa. Trường thương và kiếm cong kỵ binh vẫn là vũ khí cận chiến hiệu quả. 

Điểm đặc biệt của kỵ binh Ba Lan đó là các đơn vị kỵ binh chống tăng với súng và lựu đạn chống tăng có hiệu quả khá cao. Nhiều xe tăng Panzer I, II của Đức trong cuộc xâm lược Ba Lan năm 1939 đã bị tiêu diệt bởi lực lượng này. 

Kỵ binh Ba Lan đã tác chiến khá hiệu quả cho đến khi đất nước bị đánh bại năm 1939. 

V) Mông Cổ:

Cho đến tận thập niên 60-70 của thế kỷ 20, Mông Cổ vẫn duy trì các đơn vị kỵ binh chủ lực. Các lực lượng này kết hợp khá nhuần nhuyễn chiến thuật kỵ binh truyền thống, nổi bật là các đơn vị kỵ cung với vũ khí hiện đại. 

Các đơn vị kỵ binh sử dụng súng trường và lựu đạn tác chiến bên cạnh các đơn vị kỵ cung truyền thống là một đặc điểm nổi bật của kỵ binh Mông Cổ trong chiến tranh hiện đại. Bên cạnh những đặc điểm trên, kỵ binh
Mông Cổ vẫn còn rất lợi hại với kiếm cong và trường thương khi cận chiến.

Trong cuộc xung đột giữa Liên Xô và Nhật Bản năm 1938-1939, kỵ binh Mông Cổ là một trong những thành phần nòng cốt trong lực lượng Sô Viết. Trong giai đoạn 1920-1940, kỵ binh Mông Cổ là tác nhân chính đã đẩy bật các lãnh chúa quân phiệt Trung Quốc ra khỏi thảo nguyên.

VI) Trung Quốc:

Trung Quốc có kinh nghiệm khá lâu đời với việc sử dụng kỵ binh trong chiến tranh. Cuộc nội chiến Trung Quốc giữa phe Cộng Sản và phe Quốc dân đảng đã chứng kiến số lượng lớn kỵ binh được sử dụng. Các lực lượng kỵ binh này có cách tác chiến khá tương đồng so với kỵ binh của các nước khác.

Trong chiến tranh Triều Tiên, các đơn vị bộ binh TQ đã sử dụng ngựa cho nhiệm vụ hậu cần ở vai trò tích cực. Ngựa thồ vận chuyển lương thực, như yếu phẩm và đạn được là thành tố quan trọng trong các đơn vị bộ binh Trung Quốc. Các lực lượng kỵ binh đã dần trở thành dĩ vãng sau thập niên 50.

Ngày nay, đơn vị kỵ binh chiến đấu cuối cùng còn lại trên thế giới thuộc biên chế quân giải phóng nhân dân Trung Hoa. Đơn vị này là một tiểu đoàn kỵ binh đóng tại khu tự trị nội Mông. Được trang bị súng trường tấn công hiện đại bên cạnh lựu đạn và vũ khí chống tăng, đây là một lực lượng đặc biệt. Kiếm cong kỵ binh vẫn là trang bị bắt buộc với đơn vị này. 
Chiến thuật xung phong và sử dụng kiếm cong cận chiến vẫn là căn bản với đơn vị trên. 

Trong thời hiện đại, vai trò của kỵ binh chiến đấu đã kết thúc. Các đơn vị kỵ binh ngày nay chủ yếu phục vụ trong đội danh dự. 
Ở nhiệm vụ an ninh, một số nước vẫn sử dụng ngựa cho lực lượng cảnh sát cũng như các đơn vị sơn cước. 

Đây là bài viết mở đầu cho serie mới về kỵ binh trong chiến tranh hiện đại song song với serie vũ khí Anh của page, mong các mem chú ý đón đọc.

Cảm ơn mọi người đã đón đọc bài viết. 

Cras.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.

🐲KINGLONG WONMAN ĐĂNG - CAO TỔ CỦA NHỮNG VỊ VUA

  2019 thuê nhạc sĩ  phổ nhạc bài này làm hiệu doanh nghiệp, làm nhạc chờ công ty, giờ có rồi, nên lưu lại ở đây làm kỹ niệm  ĐĂNG CHO VAY -...