Sưu tầm
Tranh: hạm đội Hán triều bị tập kích bởi hỏa thuyền của quân nổi loạn trên sông. Thuyền trung tâm ở chính giữa đóng vai trò chỉ huy là một phần tất yếu của thủy trại xa xưa.
Đại Tần, triều đại khởi lập ra Trung Hoa thống nhất là triều đại quân sự trực trị đầu tiên trong lịch sử Trung Nguyên. Sức mạnh quân sự của nhà Tần, với nền tảng đến từ lực lượng lục quân* hùng mạnh là căn bản cho học thuyết quân sự của các triều đại sau đấy. Khởi nghiệp từ vùng phía Tây - Tây Bắc Trung Nguyên, giáp ranh với các sắc dân du mục phương Bắc hiếu chiến, nhà Tần đã xây dựng nên một quân đội thiện chiến với lực lượng bộ binh - cung thủ tinh nhuệ và lực lượng kỵ binh giáp sắt có sức mạnh vô địch. Tuy vậy, khi lãnh thổ đại Tần dần mở rộng về phía Nam và vượt quá giới hạn của đồng bằng Trung Nguyên, với ranh giới lãnh thổ vượt qua bờ Nam sông Trường Giang, thủy chiến nhanh chóng trở thành một phần quan trọng của chiến tranh. Sự phát triển dân số mạnh mẽ nhờ các đồng bằng phì nhiêu phía Nam cùng sự hình thành của các vương quốc mới theo định chế của Trung Nguyên chỉ càng làm thủy chiến trở nên quan trọng hơn. Kể từ thời nhà Hán trở đi, sức mạnh đường thủy đã thành một phần bắt buộc của chiến tranh.
Do đặc điểm địa lý tự nhiên của Trung Hoa, phần lớn các trận thủy chiến lớn đều xảy ra ở phía Nam Trung Hoa. Trong tư duy của người Trung Hoa xa xưa, người miền Bắc là sắc dân dũng võ giỏi cưỡi ngựa, chuyên nghề chiến chinh - buôn bán, trong khi các sắc dân phía Nam lại thiên về nghề nông - nghề thủy, giỏi nghề đi thuyền, không chuyên việc cưỡi ngựa - bắn cung. Đặc điểm tự nhiên của sông Trường Giang với lòng sông lớn, các vùng nước chảy siết quanh co, mực nước sâu với nhiều vùng nước hiểm đã tạo nên địa hình hoàn hảo cho chiến tranh đường thủy phát triển.
Với tư duy chiến tranh tập đoàn theo khuôn mẫu của Đại Tần, nhà Hán và các triều đại sau đấy đã thiết lập nên một lực lựng thủy quân với tổ chức và biên chế vững chắc. Hệ thống hành chính trung ương tập quyền vững mạnh và sức mạnh kinh tế hùng hậu của Trung Nguyên và các vùng đất phía Nam đã cho phép triều đình trung ương có đủ tiềm lực để xây dựng thủy binh. Các sắc dân Hán định cư tại bờ Bắc và bờ Nam sông Trường Giang cũng như các sắc dân phi Hán tộc quen nghề sông nước chịu sự quản lý của triều đình trung ương và định chế của người Hán đã mang đến nguồn tân binh chất lượng và dồi dào cho thủy binh Trung Hoa. Các loại tàu chiến đầu tiên hẳn đã có xuất xứ từ tàu buôn và các loại tàu dân sự khác được thường dân sử dụng. Các triều đại ở các giai đoạn lịch sử khác nhau của Trung Hoa đã ghi nhận những mẫu chiến thuyền khác nhau được sử dụng. Dọc theo các vùng sông nước, các mẫu thuyền khác nhau cũng đã được ghi nhận. Việc chúng đã được sử dụng đến mức độ nào và đã có ảnh hưởng đến việc thiết kế chiến thuyền của Trung Hoa ra sao là một chủ đề rất rộng lớn và không thể được đề cập đủ trong giới hạn của bài viết. Các sắc dân Trung Hoa sống tại khu vực ven biển phía Nam, đặc biệt là tại vùng Lưỡng Quảng, Phúc Kiến, và Nam Hải xa xôi của Trung Hoa lại có những mẫu thiết kế thuyền và kỹ thuật đi biển của riêng mình, vốn có nhiều điểm khác biệt với thủy chiến trên sông Trường Giang.
Tuy vậy, những mẫu thuyền chiến của Trung Hoa xa xưa có thể được tập hợp lại qua những yêu cầu chung cho chúng. Thứ nhất là về nhiệm vụ thiết kế, các mẫu thuyền được thiết kế cho các nhiệm vụ khác nhau mang ảnh hưởng trực tiếp lên thiết kế của chiến thuyền. Đây cũng chính là đặc điểm thứ hai: kích cỡ của thuyền và số lượng người - binh khí chúng có thể mang theo. Hai đặc điểm trên là những đặc điểm cốt lõi ảnh hưởng trực tiếp lên chiến thuyền và thủy chiến đương thời. Theo các ghi chép trong các điển tự đời Hán, thời Tam Quốc, giai đoạn phân tranh và các ghi chép trong lịch sử chiến tranh Trung Hoa xa xưa, các mẫu chiến thuyền nhỏ mang 20 - 50 người (với các mẫu mang theo 20 người, 30 người và 50 người) cùng các chiến thuyền lớn có khả năng mang theo 100 - 200 người là nền tảng chiến đấu của thủy binh Trung Hoa. Để tăng hải trình và năng lực chuyên chở, các mẫu lâu thuyền với vọng lâu và kích cỡ lớn có thể mang từ 400 - 600 người trở lên cùng lương thực, binh khí dự trữ đã dần được phát triển. Trong thủy chiến xa xưa, lâu thuyền được đặt ở trung tâm của đội hình thủy binh, đóng vai trò chỉ huy, tận dụng kích cỡ của mình để áp chế các đội thuyền nhỏ đồng thời tận dụng vọng lâu để bắn chế áp thuyền địch bằng tên và hỏa khí. Do dự trữ hải trình (lương thực, thuốc men, nước uống và binh khí dự trữ) của các chiến thuyền nhỏ không lớn, lâu thuyền cũng mang ý nghĩa quan trọng chiến lược về tiếp vận trong chiến tranh đường thủy xa xưa.
Các chỉ huy thủy binh Trung Hoa xưa đã áp dụng tư duy chiến tranh tập đoàn vào việc xây dựng thủy binh hiệu quả. Các loại chiến thuyền với kích cỡ và công dụng khác nhau tạo thành các lớp và các đội hình thủy chiến vững chắc với lâu thuyền ở trung tâm là chiến lược căn bản trong thủy chiến xa xưa. Thủy trại (thường đặt tại trung quân), được thiết lập để làm đại bản doanh cho thủy binh xa xưa (một khái niệm gần gũi với đại bản doanh trên bộ), được thiết lập từ các chiến thuyền trong hạm đội sẽ là gốc của các chiến lược chiến tranh đường thủy cổ đại trứ danh còn được lưu truyền tới ngày nay.
*Lục quân: vốn có nghĩa là sáu quân, theo phép phong kiến cũ chỉ dành để gọi quân của Thiên Tử. Chữ lục ở đây cũng có thể để chỉ cây cối - rừng núi trong tiếng Hán xưa.
Cras.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.